Sàn giao dịch mua bán trực tuyến MB24

MUA BÁN TRỰC TUYẾN HAY THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ HIỆN ĐANG LÀ XU THẾ PHÁT TRIỂN CHUNG CỦA CẢ THẾ GIỚI.TUY NHIÊN Ở VIỆT NAM HÌNH THỨC TRÊN CÒN KHÁ MỚI MẺ. Xin trân trọng giới thiệu tới Quý Bạn Sàn giao dịch thương mại điện tử mua bán trực tuyến MB24 . Hiện tại Tôi đang có 3 gian hàng mua bán trên sàn giao dịch này . Bạn có thể trực tiếp kinh doanh trên gian hàng của mình , hoặc bạn sẽ được mua hàng chất lượng tốt với giá rẻ của nhà sản xuất mà không phải trả chi phí cho bất cứ một khâu trung gian nào. TIẾT KIỆM CHI PHÍ CHO GIA ĐÌNH BẠN NHIỀU TRIỆU ĐỒNG.Bạn có thể liên hệ với Tôi để tham gia mua bán trực tuyến và tham gia Thương mại điện tử ngay nha : 0919.781.981

Thứ Bảy, 25 tháng 6, 2011

Phần kết


chuongxedap:

Phụ lục chương 4

Những cuộc tranh chấp và xung đột lãnh thổ - sắc tộc chủ yếu ở Liên Xô.

Phân loại những nguyên nhân cơ bản của xung đột:

A   - thay đổi đường biên giới.
B   - cách ly các nhóm sác tộc tương ứng trong quá khứ hoặc hiện tại.
C   - bao gồm cả A và B.
D   - thay đổi trong quá khứ về quy chế tự trị hoặc về tính chất lãnh thổ - quốc gia.
E   - thống nhất lịch sử, sắc tộc và (hoặc) kinh tế.
F   - bao gồm cả B và E.
G   - khôi phục hoặc đàn áp ý thức giác ngộ dân tộc

Nguồn: số liệu được cán bộ Viện Nghiên cứu Địa lý thuộc Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô soạn thảo. Báo “Tin tức Matxcơva”, số 11 ngày 17/3/1991.

Nguyên nhân                                    Địa điểm xung đột

Vùng phía Tây

A     Phần khu vực Murmanxk của Nga - vào Kareli    
A     Phần khu vực Pskov và Lêningrad của Nga - vào Estoni  
F     Phần Latvi - vào Estoni        
B     Lập vùng tự trị nói tiếng Nga ở Đông bắc Estoni  
A     Phần khu vực Pskov của Nga - vào Latvi   
C     Phần Tây bắc khu vực Belorus - vào Litva  
B     Lập vùng tự trị Ba Lan ở miền Nam Litva    
C     Cảng Klaipeda (biển Baltik) và vùng lân cận tách khỏi Litva      
C     Phần khu vực Kaliningrad của Nga - vào Litva    
C     Lập những đơn vị chính trị - hành chính Đức ở vùng Kaliningrrad    
A     Khu vực miền Nam của Litva - vào Belorus  
A     Phần khu vực Zitomir của Ucraina - vào Belorus        
A     Phần khu vực Gomenxk của Belorus - vào Ucraina  
C     Phần khu vực Chernovitxk của Ucraina - vào Moldova      
C     Lập nước cộng hòa Pridnestrov của Moldova   
C     Lập vùng Odesa của Ucraina  
B     Lập khu tự trị Gagau ở miền Nam Moldova          
B     Lập khu tự trị Bulgari ở biên giới Moldova và Odesa của Ucraina  
A     Phần khu vực Odesa của Ucraina - vào Moldova  
B     Lập nước cộng hòa Kưmxk-Tarta vào Krưm  
C     Tách Krưm ra khỏi Ucraina  
B     Khu vực Đông nam Ucraina - vào Nga  
A     Phần khu vực Rostov của Nga - vào Ucraina  


Vùng Kavkaz

B     Các vùng Primor của miền Kraxnodar - vào Adygei  
C     Lập các nước cộng hòa Karachaiev và Cherkes      
C     Lập các nước cộng hòa Kabardino-Balkari        
E     Lập nước cộng hòa Karachaiev-Balkari  
E     Lập nước cộng hòa Kabardino-Cherkes  
D     Khôi phục khu tự trị Inguseti        
C     Phần phía Đông của Bắc Osetin - vào Chechen-Inguseti  
C     Phần Bắc Oseti (từ thành phố Mozdok)- vào Kabardino-Balkari  
C     Phần Chechen-Inguseti (từ t.p Malgobek) vào Kabardino-Balkari  
E     Lập Cherkes thống nhất trong biên giới của Cherkes, Kabardy, Adygei và các vùng Primorxk của miền Krasnodar      
B     Các vùng phía Tây Daghestan - Chechen-Inguseti  
D     Khôi phục nước cộng hòa Gorxk trong biên giới Chechen-Inguseti, Bắc Oseti, Kabardy và Cherkes  
D     Khôi phục các khu tự trị văn hóa dân tộc: của người Kazak ở miền Krasnoda và Sevatopol; của người Hy Lạp ở miền duyên hải Krasnoda  
A     Lãnh thổ Xôchi vào Gruzi  
G     Tách Abkhaza ra khỏi thành phần Gruzi  
       ?  
G     Lập cộng hòa tự trị Nam Oseti vào thành phần Gruzi  
E     Kỷ niệm khu tự trị Nam Oseti        
E     Thống nhất Nam và Bắc Oseti        
E     Nagornyi Karabak vào Armeni        
B     Phần Tây nam Gruzi (Dzavakheti) vào Armeni  
B     Phần đông nam Gruzi vào Azerdbaidzan  
B     Phần Tây bắc Azerdbaidzan vào Gruzi  
B     Phần Nam Armeni vào Azerdbaidzan  
G     Kỷ niệm nước cộng hòa tự trị Adzarxk  
B     Khôi phục miền Saumianovxk trong Azerdbaidzan  
B     Trả những người Thổ-meskhetin về quê hương lịch sử   


Vùng Volga

B     Khôi phục nước cộng hòa của người Đức ở dọc Volga        
B     Tách người Tatar sang vùng của người Tatar Kazan và Mesari  
F     Lập Baskorstan thống nhất; các yêu sách về lãnh thổ của nhau giữa người Baskiri và người Tatar  


Vùng Trung Á và Kazakhstan

G     Karakalpaki tách khỏi Uzbekistan   
D     Sáp nhập Karakalpaki vào Kazakstan  
B     Phần vùng Mangystaun của Kazakhstan vào Turkmeni        
F     Priamudarinxk của vùng Tasauzxk (Turkmenistan) vào Uzbekistan        
A     Phần Tây bắc vùng Bukharxk (Uzbekistan) vào Karakalpaki         
F     Phần Đông nam Karakalpaki vào vùng Khorezm của Uzbekistan  
F     Priamudarinxk (vùng Chardzouxk) của Turkmeni vào Uzbekistan  
F     Priamudarinxk (vùng Bukharxk) của Uzbekistan vào Turkmeni  
F     Phần Nam vùng Chimkentxk của Kazakstan vào Uzbekistan        
F     Các phần vùng Markandxk và Bukharxk của Kazakstan (bình nguyên miền Zarafsan) vào Tadzikistan  
F     Vùng Xurkhandarinxk của Uzbekistan vào Tadzikistan          
F     Miền núi phía Nam của vùng Osxk thuộc Kirgizi vào Tadzikistan      
F     Phần Gorno-Badakhsanxk của khu tự trị Tadzikistan (Bắc Pamiro - Alai) vào Kirgizi        
F     Phần Osxk của vùng Kirgizi (trong bình nguyên Ferganxk) vào Uzbekistan  
F     Các vùng phía Nam của Alma-Atinxk và Taldy-Kurganxk của Kazakstan vào Kirgizi        
F     Các khu vực Bắc Issyk-Kulxk của Kirgizi vào Kazakstan    
C     Phần biên giới tiếp giáp với vùng Kazakstan của Nga (khu vực Astrakhanxk, Volgagradxk, Orenburgxk, Omxk, Kurganxk, Altaixk và các vùng khác) vào Kazakstan          
B     Lập những đơn vị chính trị - hành chính Đức ở Bắc Kazakstan và các khu vực tiếp giáp Nga  
A     Phần Bắc Kazakstan, Kokchetav, Tselinograd, Kuxtanai, Đông Kazakstan, Priirtys của vùng Pavlodar và Xemipalatin, các phần Bắc của vùng Ural và Aktiubin thuộc kazakstan vào Nga  


Vùng Trung Á và Kazakhstan

B     Phần đông khu tự trị Gorno-Altaixk vào Tuva       
B     Phần miền Krasnodarr vào Tuva    
D     Sáp nhập khu tự trị Buriati Aginxk vào Buriati    
A     Phần vùng Magadanxk vào Iakuti      
chuongxedap:

Kết luận
  
Xuyên suốt từ lời phát biểu nổi tiếng và đã được chúng tôi trích dẫn ở trên của Allen Dalles đến bản tường trình của Boris Elxin từ Belovezi gửi cựu Giám đốc CIA George Bush (cha) là “cuộc cách mạng chung Mỹ - Xô“. Vào cuối năm 1991, một “cuộc cách mạng chung Mỹ - Xô“ thống nhất đã bị phân hoá thành những quá trình bộ phận, và giờ đây đang diễn ra những cuộc cách mạng chung mang tính “quốc tế” sau:

-   Cuộc cách mạng Mỹ - Azerbaidzan
-   Cuộc cách mạng Mỹ - Armenia
-   Cuộc cách mạng Mỹ - Gruzia
-   Cuộc cách mạng Mỹ - Kazastan
-   Cuộc cách mạng Mỹ - Kirgizia
-   Cuộc cách mạng Mỹ - Latvia
-   Cuộc cách mạng Mỹ - Litva
-   Cuộc cách mạng Mỹ - Mondovia
-   Cuộc cách mạng Mỹ - Nga
-   Cuộc cách mạng Mỹ - Uzbekistan
-   Cuộc cách mạng Mỹ - Ucraina
-   Cuộc cách mạng Mỹ - Tadzik
-   Cuộc cách mạng Mỹ - Turkmenia
-   Cuộc cách mạng Mỹ - Estonia

Vì lý do nào đó, cuộc “cách mạng chung” ở Uzbekistan đã không được thuận lợi, bị trục trặc tại vùng Pridnestrovie. “Sự kết thúc lịch sử” đã không xảy ra.

Nhưng, như ở Liên Xô chúng ta từng nói, “cách mạng có sự khởi đầu - cách mạng không có kết thúc”. Còn bây giờ, chúng ta nói tới cuộc cách mạng đang tiếp tục. Chính vì vậy mà hoàn cảnh tan vỡ đi tới diệt vong của Liên Xô đã bị che đậy và “chiến tranh lạnh” cùng “cuộc cách mạng chung” vẫn chưa kết thúc. Dưới thời Tổng thống Bush (cha), người ta đã tiêu diệt Liên Xô, dưới thời Tổng thống Bush (con), người ta muốn tiêu diệt nốt nước Nga.

Đến lúc này, chúng đã có thể can đảm đưa ra kết luận ban đầu: “Mười năm gần đây, chính sách đối với Liên Xô và các đồng minh của nó đã khẳng định tính đúng đắn của đường lối chúng ta đã lựa chọn nhằm loại bỏ một trong những cường quốc hùng mạnh nhất, đồng thời là một khối quân sự mạnh nhất trên thế giới. Tận dụng những sai lầm của nền đối ngoại Xô Viết, sự tự tin đặc biệt thái quá của Gorbachov và đám cận thần của ông ta, trong đó có những những kẻ đã công khai bày tỏ quan điểm thân Mỹ, chúng ta đã giành được điều mà Tổng thống Truman đã từng muốn làm với Liên Xô bằng bom nguyên tử. Thực ra, với một sự khác biệt căn bản, - chúng ta đã có thêm một vùng nguyên liệu, một quốc gia không bị huỷ diệt bằng bom nguyên tử nên không cần mất công xây dựng lại.

Đúng là chúng ta đã tiêu tốn cho việc này hàng nhiều triệu USD, song chi phí đó cũng giống như bây giờ người Nga vẫn nói là “thu bù chi”. Sau 4 năm, chúng ta và các đồng minh của chúng ta đã thu được 15 tỷ USD từ những nguyên liệu chiến lược khác nhau, hàng trăm tấn vàng, đá quý... ít nhất là hơn 20 nghìn tấn đồng, gần 50 nghìn tấn nhôm, 2 nghìn tấn sezi, berili, stronti.

Trong những năm của cái gọi là cải tổ ở Liên Xô, nhiều nhà quân sự và kinh doanh của chúng ta đã không tin vào thành công của chiến dịch này. Nhờ việc làm lung lay được những nền tảng tư tưởng, chúng ta đã không phải đổ máu để loại bỏ một quốc gia từng cạnh tranh quyết liệt với Mỹ ra khỏi vai trò thống trị thế giới. Mục tiêu và nhiệm vụ của chúng ta tới đây là giúp tất cả những ai muốn coi chúng ta như một hình mẫu của tự do và dân chủ.
chuongxedap:

Vào thời kỳ đầu năm 1991, khi các nhân viên CIA đã từng chuyển giao cho phương Đông 50 triệu USD để thực hiện những kế hoạch của chúng ta, và sau đó là một khoản tiền như thế nữa, thì khá nhiều nhà chính trị và quân sự đã tỏ ra không tin vào thành công của chúng. Còn hiện nay, qua 4 năm thôi, rõ ràng những kế hoạch của chúng ta đã bắt đầu trở nên hiện thực.

Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là chúng ta không còn điều gì phải suy tính. Tại Nga - một nước mà ảnh hưởng của Mỹ vẫn chưa đủ mạnh, vẫn cần giải quyết đồng thời những nhiệm vụ sau: cố gắng bằng mọi cách không để cho những người cộng sản trở lại nắm chính quyền. Với sự hỗ trợ của bạn bè chúng ta, cần tạo nên những tiền lệ sao cho trong cuộc chạy đua vào nghị viện luôn có những chướng ngại hợp lý cũng như vô lý đối với các đảng cánh tả. Để giải quyết những thời điểm chính trị quan trọng, cần phải làm sao để những kẻ đã làm tổn hại thanh danh mình phải rời bỏ khỏi hàng ngũ thân cận của Tổng thống Elxin. Và thậm chí một chút “thiên tả” của vị Tổng thống hiện thời không thể là thất bại của chúng ta. Điều này sẽ chỉ là một xảo thuật chính trị tinh tế. Mục đích biện hộ cho phương tiện.

Nếu những nhiệm vụ này sẽ do chúng ta quyết định, thì trong mười năm tới chúng ta phải giải quyết những vấn đề sau: phân chia nước Nga ra thành những quốc gia nhỏ hơn bằng những cuộc chiến tranh giữa các vùng, giống những gì đã từng được tổ chức ở Nam Tư; làm tan rã hoàn toàn quân đội và tổ hợp công nghiệp - quân sự của Nga; thiết lập những chế độ mới có lợi cho chúng ta tại các quốc gia cộng hoà được tách ra. Chúng ta cho phép Nga là một cuờng quốc, song chỉ có một đế chế duy nhất - đó là Mỹ”1.

Phương Tây sẵn sàng tiếp tục tấn công Nga. Điều này thậm chí rất rõ ràng trong quan điểm bố trí nhân sự: “Tổng thống Mỹ vừa giao cương vị mới cho cố vấn của mình về vấn đề hoạch định chiến lược và điều chuyển một loạt lãnh đạo chủ chốt của RAND Coporation vào làm việc trong chính phủ của mình”.

Ngoài nhà Xô Viết học đã biết là Condoleezza Rise trong bộ máy hành chính của Tổng thống thứ 43 ở Mỹ, chúng ta còn thấy những nhà phân tích khác ở những cương vị chủ chốt như:

Pol O, Nil - Bộ trưởng Tài chính, trước đây là Chủ tịch của RAND Coporation;

Donalld Ramsfeld - Bộ trưởng Quốc phòng, thuộc Ban lãnh đạo của Viện Chiến tranh, cách mạng và hoà bình Huver và thuộc Hội Đồng Bảo trợ của RAND Coporation;

Gail Norton - Bộ trưởng Ngoại giao, nguyên là nhân viên khoa học của Viện Nghiên cứu Thái Bình dương;

Donalld Luis Evans - Bộ trưởng Thương mại, đồng thời là Chủ tịch Hội đồng Bảo trợ của Trường đại học tổng hợp Texass;

Elen Chao - Bộ trưởng Lao động, nguyên là nhân viên khoa học của Quỹ “Di sản”.

Sau khi kết thúc Chiến tranh thế giới II ở châu Âu, Mỹ đã từng tiến hành “đổ bộ” những nhà khoa học vào châu lục này (Liên Xô cùng từng làm như vậy) nhằm tìm kiếm các chuyên gia, bản vẽ kỹ thuật, phát minh và các mẫu kỹ thuật mới. Còn các nhân viên tình báo thì hoạt động trên “mặt trận” của mình để tìm kiếm những kẻ chỉ huy và nhân viện mật vụ của Đức phát xít. Đường ranh giới phân định khu vực chiếm đóng không hề là vật cản đối với những hoạt động này. Trong tất cả những chiến dịch như thế, người ta chỉ biết rằng thông qua cái gọi là ủy ban ALSOS “vấn đề nguyên tử” và việc tìm thấy nhà chế tạo tên lửa Verner phon Braun đã được giải quyết. Tương tự, chúng ta thấy rằng sự kết thúc giai đoạn đầu của cuộc xâm lược hiện nay nhằm làm Liên Xô tan rã và chiếm đóng “vô hình” đã dẫn đến việc “chảy máu não” từ Liên Xô cũ, nhưng Mỹ không vội chuyển ngay một số chuyên gia về mình bởi lý do: chưa cần thiết, cứ để những người này làm việc “tại chỗ” để tiếp tục thu thập thông tin. Điều này liên quan tới “những tổ hợp thần kinh” Nga.
_________________________________
1. Phát biểu của Tổng thống Mỹ B. Clinton tại phiên họp mở rộng của ủy ban Thống nhất các chỉ huy tham mưu ngày 25 tháng 10 năm 1995.
chuongxedap:

“Những kẻ cấp tiến” Nga đang hỗ trợ cho “bộ não” của Mỹ. Trong vấn đề này không có gì là mới về mặt nguyên tắc - chúng ta đã từng thấy sự sáng tạo chung độc đáo này từ những năm trước cải tổ. Hiện nay, những hợp đồng với kẻ địch bên ngoài không còn là bí mật đối với quảng đại quần chúng. Điều này diễn ra thông qua việc cấp bằng tiến sĩ và danh hiệu giáo sư của các trường đại học ở nước khác, thông qua hệ thống bòn rút lực lượng trí thức Nga của George Soros, thông qua những hợp đồng trực tiếp và trung gian với các viện nghiên cứu và các “trung ương thần kinh” - sự hổ thẹn, vào thời đại của chúng ta, đã biến mất cùng với mùi của máu trên đồng đô la. Tính chất công khai của nó đang tạo ra một hiệu quả vô cùng lớn so với giai đoạn 1945 - 1991, khi người Mỹ buộc phải thu nhận thông tin qua những kẻ bị mua chuộc và phải trả rất nhiều tiền. Hoàn cảnh hiện nay không như vậy nữa. Tiền được trả theo hợp đồng: “Những cơ quan tình báo Mỹ đang hoạt động tại Nga đã chuyển hoạt động sang một bước mới về chất. Từ các nhà chính khách, chính trị và những chuyên gia chuyên ngành Nga họ lập ra những nhóm cán sự và thông qua rất nhiều quỹ của Mỹ đang có mặt tại Nga họ trả tiền cho hoạt động của những nhóm này, lập ra những dữ liệu phân tích sâu về tình trạng kinh tế và chính trị Nga. Những kết luận thu được thường được sử dụng trực tiếp vào hoạt động phá hoại nước Nga”.

Đồng thời, với mục đích ngụy trang họ đã cố tình mô tả thời điểm mang tính vấn đề đó như một thứ không đáng phải quan tâm đặc biệt, như:

-   Arkadi Murasev hiện đang ở đâu? Ông ta biến đi đâu?

-   Mọi chuyện đối với ông ta vẫn ổn. Ông ấy đã sáng lập ra Quỹ chính trị tự do bảo thủ.

-   Chính trị gì?

-   Tự do bảo thủ.

-   Nó ra sao?

-   Thì ông ấy cùng với Thatcher là đồng sáng lập viên. Thatcher đã tới giúp !

-   ...

Vậy là mọi sự trở nên bình thường. Điều đó có nghĩa là mọi người ở Nga không cần lo lắng gì cho những nhà tự do bảo thủ. Thì Egor Timurovich cũng đâu có lạc hậu: ông ta cũng cùng với một người Mỹ là D. Cogan đã sáng lập ra Hiệp hội toàn Nga Những xí nghiệp tư nhân và tư hữu hóa (lạy chúa tôi, hình thái sở hữu của chúng ta không làm cho người Mỹ thấy yên lòng!), rồi Burbulis thì có Quỹ “Chiến lược”. Thậm chí, Alla Gerber cùng đang nói tới một quỹ gì đó liên quan tới người châu Âu. Họ có tiền, cho dù những quỹ kiểu này chẳng làm ra tiền”.

Việc này, như chúng ta khẳng định, là vô cùng nghiêm túc. Kiến thức của các nhà phân tích luôn là thứ vũ khí đáng sợ nhất. Liên quan tới vấn đề này, nên có một đề nghị, xuất phát từ tính toán như sau: Trong hoạt động của cơ quan tình báo, bảo vệ luật pháp và thuế vụ hiện nay đang thực hành cái gọi là hệ thống tính toán nghiệp vụ (có đăng ký). Bản chất của nó là bất kỳ một bộ phận nào cũng cần lập ra cho mình một cơ sở dữ liệu về các nhân vật mà do tính chất hoạt động, họ luôn cần được giám sát tỉ mỉ. Những thông tin thu thập được trước đó về các nhân vật, trong trường hợp cần thiết, đã và đang cho phép tiến hành các biện pháp ngăn ngừa chỉ trong một phạm vi cần thiết, còn trong trường hợp khẩn cấp có thể thu hẹp tối đa phạm vi những người bị nghi ngờ. Mỗi bộ phận đều có thẻ đăng ký riêng để từ đó có thể lựa chọn ra những thông tin cần thiết.
Trong giai đoạn hiện nay, mối quan hệ vững chắc giữa các nhà chính khách uy tín nhất với các nhà chuyên môn của các “Trung ương thần kinh” đang tỏ ra khá hiệu quả.

Trong một thời gian ngắn có tới hàng chục “trung tâm”, “Viện khoa học”, “Quỹ”, “hãng thông tấn”, “Viện nghiên cứu” đi kèm với các hình dung từ như: “độc lập”, “quốc tế, “phân tích”... ra đời. Phần lớn trong số này được thành lập vào những năm 1980 - 1990, hoặc sau đó. Có một số ít trở nên khá nổi tiếng khi có gắn bó chặt chẽ với những chính khách “may mắn” thì nằm ngay khu trung tâm Matxcơva, chiếm cả tòa nhà làm trụ sở.

Cơ cấu của chúng cũng khác nhau. Tối thiểu thì có giám đốc, thư ký, còn khi có đơn đặt hàng và cần phải mở rộng quy mô nghiên cứu thì chúng liên danh với nhau. Có tổ chức lại rất đông nhân viên như: “Quỹ Gorbachov”, các viện nghiên cứu cũ, các cơ quan chính phủ...

Lãnh đạo những trung tâm như thế thường là phó tiến sĩ, tiến sĩ khoa học, những người vốn đã hiến mình cho khoa học hoặc các chính khách chưa được công nhận trong các cơ quan quyền lực, hoặc những chính khách ở dạng “dự bị”, các tướng lĩnh KGB về hưu, hoặc những người trẻ tuổi đầy tham vọng.

Còn các nhân viên bình thường. Đó là những con người đã từng khai phá các ý tưởng của mình và đã được công nhận. Trong công việc họ không có gì nổi bật, dường như không ai nhờ tới họ, mà chỉ có các đồng nghiệp cạnh tranh là biết rõ họ. Tuy nhiên, họ lại là đối tượng của những lời đề nghị đầy cám dỗ - chuyện “săn đầu người” trong thị trường này là rất sôi động. Kinh nghiệm của những nhân viên này cũng rất đa dạng. Các trung tâm đang cần tới những kinh nghiệm từ thời Xô Viết, cần những cán bộ giỏi trong các cơ quan phân tích thông tin của KGB Liên Xô, Bộ Ngoại giao, Bộ tổng tham mưu Lực lượng Liên Xô... Đặc biệt là những cán bộ giàu kinh nghiệm, tiến sĩ khoa học. Trong số này có cả những người vừa tốt nghiệp các trường đại học ở Matxcơva - họ là những người đã từng cộng tác với các trung tâm từ thời còn là sinh viên...

Tính chất công khai của những tổ chức này cũng rất tương đối. Bản thân các vị giám đốc đều cố tránh con mắt nhòm ngó của đám phóng viên, nhất là bên truyền hình. Thường thì chỉ có các chuyên gia, đồng nghiệp và đối tác biết đến chúng. Những gì mà người khác có thể biết chỉ là địa chỉ trụ sở, số điện thoại, hòm thư lưu... người lãnh đạo, một số công trình đã được công bố.

Có những công trình nghiên cứu khoa học công khai, thỉnh thoảng được đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng, trên các site Internet. Một số công trình bí mật được giải mật và được công bố từng phần, song những tư liệu giá trị nhất thì không bao giờ xuất hiện bằng con đường này.

Một số tổ chức hoạt động trên thị trường tư vấn chính trị, một số khác lại chuyên phục vụ những chính khách cụ thể nào đó.

Một số lại treo biển hiệu với cái tên “vô tội” để che giấu nội dung bí mật. Một số khác thì chỉ chuyên tâm nghiên cứu theo đúng danh tính của chúng. Trong số đó có một số trung tâm được phép của quốc gia đào tạo nhân lực tiến sĩ.

“Những Trung ương thần kinh” nguy hiểm nhất đối với sự tồn tại của nước Nga thường hoạt động theo tính chất của hội tam điểm. Điều này có thể dễ dàng nhận thấy qua số lượng các hợp đồng với phương Tây, qua số lần đi công cán nước ngoài, qua số lượng các cuộc điện đàm... Đặc biệt, O. A. Platonov - một nhà nghiên cứu yêu nước Nga, - đã vạch mặt chỉ tên được một số viện nghiên cứu chuyên tư vấn cho chính phủ bí mật trên thế giới.
chuongxedap:

Những “Trung ương thần kinh” của Nga đã từng được RAND Coporation của Mỹ lựa chọn và thiết lập hợp tác là:

- Liên hiệp phi chính phủ các chính khách, chủ doanh nghiệp, nhân viên công lực, các đại diện thông tin đại chúng;

- “Hội đồng Chính sách quốc phòng và đối ngoại” (SVOP);

- Là X. A. Karaganov - Chủ tịch Đoàn Chủ tịch, Phó giám đốc Viện châu Âu thuộc viện Hàn lâm khoa học.

Vào khoảng tháng 3 năm 1994, Hội đồng này đã tiến hành nghiên cứu “Những lợi ích chiến lược Nga - Mỹ sau chiến tranh lạnh”. Trên thực tế, Viện Châu Âu và RAND Coporation đã tham gia vào dự án này1.

Một trong những thành công gần đây nhất của RAND Coporation có liên quan tới sự kiện 11 tháng 9 năm 2001. Vào thời gian này, Đảng Dân chủ Mỹ đã bị biến thành công cụ của lực lượng toàn cầu đang mơ ước thống trị thế giới và chuyên nhằm vào cạnh tranh quyền lực quốc gia. Đảng Cộng hòa Mỹ lại giữ quan điểm đối lập. Giữa hai đảng này liên tục xảy ra những cuộc xung đột xoay quanh cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ và tháng 12 năm 1999, khi cuộc khủng hoảng chính trị lớn nhất xuất hiện cùng thời gian của cuộc nội chiến cuối thế kỷ 19; cuộc khủng hoảng thứ hai là vụ tấn công khủng bố ngày 11 tháng 9. RAND Coporation, trong bối cảnh của sự kiện 11 tháng 9, cũng như trong mọi tình huống luôn là kẻ ủng hộ trung thành với “những người cộng hòa”. Chính nó là kẻ đã gợi ý cho Chính phủ Mỹ cách thức lợi dụng tổn thất trong nước để chuyển thành thắng lợi nói chung và cách thức thoát ra một cách danh dự khỏi tình huống thảm hại đó. Chủ tịch Viện Khoa học địa - chính trị, Thượng tướng L. G. Ivasov đã giải tích sự kiện này như sau: “Tôi vẫn bảo lưu quan điểm của mình về nguyên nhân của sự kiện ngày 11 tháng 9: đó là công việc nội bộ của chính nước Mỹ. Ngày 11 tháng 9 không thể là công việc của những người dân miền núi Afghanistan. Kẻ đặt hàng dứt khoát phải là nhân vật có thế lực rất lớn, theo tôi, có liên quan tới chính đám maphia tài chính thế giới có những đại diện trong các cơ cấu quyền lực của Mỹ và trong cả các cơ quan mật vụ: không phải ngẫu nhiên mà Mỹ đã tiến hành điều tra song song cả vụ phá hoại 11-9, cả những hoạt động của hàng loạt cơ cấu khác, trong đó có MOSSAD (Cơ quan Tình báo Israel)...”.

Những mâu thuẫn giữa các hãng xuyên quốc gia hình thành nên những cơ cấu siêu quốc gia trên thế giới và Mỹ đã đạt tới đỉnh điểm và hoàn toàn chuyển đổi theo quy luật thành hình thức công khai về quân sự. “Chiến tranh - là sự tiếp tục của chính trị”, như Karl fon Clausewitz2 đã từng nói, và chúng ta hiểu rằng phần mâu thuẫn chính trị đã kết thúc và mâu thuẫn quân sự đã bắt đầu...

Liệu có người nghiêm túc nào có thể tin rằng “Những ngườidân miền núi Afghanistan” lại có khả năng gây nên thiệt hại tới nhường ấy cho một quốc gia có sức mạnh hàng đầu thế giới? Hơn nữa, nhiệm vụ đặt ra trước những kẻ hoạch định kịch bản 11/9 đâu chỉ là lao máy bay vào Trung tâm Thương mại thế giới (WTC). Nhiệm vụ đó thật ra là: sử dụng những phương tiện rẻ tiền nhất làm cho Mỹ mất đi vị thế của một siêu cường để:

a- Toàn thế giới được chứng kiến;

b- Đẩy tiến trình đến nguy cơ ngăn chặn quyền lực của Tổng thống.

Điều hết sức rõ ràng là các kẻ hoạch định kế hoạch đã chọn được phương án tối ưu thông qua Hãng truyền hình CNN. Thêm vào đó, và cũng chỉ là một lần duy nhất, vào ngày 13 tháng 9 năm 2001, trên Chương trình “Vremia” của Đài Truyền hình ORT (Nga) đã hé lộ ra một sự thật: “Cuộc tấn công vào tòa tháp ở New-York đã được các nhà phân tích hệ thống và điều khiển học hoạch định...”.
________________________________
1. Xem: Sách tham khảo. Những nghiên cứu quốc tế ở Nga và SNG. Những trung tâm đào tạo và phân tích khoa học. các nhà khoa học và chuyên gia trong lĩnh vực quan hệ quốc tế, an ninh và chính sách đối ngoại. Quỹ Khoa học xã hội Matxcơva. Nxb. Công nhân Matxcơva. M., 1999.
2. 1780 - 1831, nhà lý luận và lịch sử quân sự Đức. ND
chuongxedap:

Chúng ta sẽ tự hỏi: nước Nga có liên quan gì tới mâu thuẫn: chủ nghĩa thế giới - Mỹ và Mỹ - Bin Laden? Câu trả lời là không có liên quan gì, ngoại trừ việc nhân tiện đó giải quyết những ý đồ địa - chính trị của Mỹ nhằm mở rộng NATO về phía Đông.

Đương nhiên, do nhiều nguyên nhân mà chúng ta không đề cập tới ở đây. G. Bush (con) đã không thể đáp lại những thủ phạm trực tiếp của vụ khủng bố bằng chính trị hay quân sự. Song ông ta có thể gây áp lực đối với những kẻ đang lệ thuộc Mỹ, và ông ta đã làm như vậy khi đòi hỏi “toàn thế giới văn minh” ủng hộ cuộc đấu tranh chống lại nguy cơ của chủ nghĩa khủng bố quốc tế có tổ chức.

Bản thân chiến dịch truy tìm và trừng phạt Bin Laden cùng những kẻ ủng hộ nó do Washington phát động lại theo đuổi một mục tiêu hoàn toàn khác: mượn chiêu bài đấu tranh công khai để khởi đầu sự chiếm đóng lãnh thổ của Liên Xô cũ. Kể từ thời điểm đó, khi bước chân của người lính Mỹ đặt lên đất “chúng ta”, cuộc chiến chống Liên Xô được mở màn từ năm 1945 đã có một biên độ mới.

Trong vấn đề này, cần phải hiểu rằng, thời đại mà các lực lượng chính trị đối kháng nhau tới mức đối đầu đã qua đi. Thay vào đó, trên cơ sở của sự liên kết lẫn nhau to lớn giữa các hệ thống chính trị và kinh tế, là những hình thái mới, trong đó có cả việc tìm kiếm đối tác ngay trong số những kẻ thù truyền kiếp, có cả việc những lợi ích tương quan có thực trong một lĩnh vực này lại đột ngột trở thành sự thù địch trực tiếp trong một lĩnh vực khác. Bản thân thuật ngữ những người bạn không đội trời chung ngày càng được sử dụng rộng rãi hơn để mô tả đầy đủ những mối quan hệ giữa hai hệ thống đối kháng - đối tác: là kẻ thù trong lĩnh vực này - là đối tác trong lĩnh vực kia - là liên minh trong trường hợp khác. Nó tựa như mối quan hệ cặp đôi (tandem) Nga - Mỹ. Trong trường hợp nào thì chúng ta thực sự là bạn bè, còn trong trường hợp nào thì phải đấu tranh đến cùng. Với quan điểm này, Mỹ đã có được lợi thế hơn trong chiến tranh lạnh với Liên Xô, và vẫn “hữu nghị” với nước Nga “đã cải tổ”. Mỹ đã lập tức hiểu ngay ra điều đó khi “mối nguy cơ đỏ” huyền thoại đã thay đổi vào năm 1991, và mối đe dọa thực sự đối với họ hiện nay là sự phát triển không kiểm soát được của vũ khí hạt nhân.

Những kết luận khách quan của chuỗi sự kiện quy mô cuối năm 2001, kể từ vụ phá hoại WTC ở New-York đến cuộc can thiệp của Mỹ vào Afghanistan, đã được thể hiện một cách thẳng thắn trong bài viết của Lidia Andrusenko và Olga Tropkina của cuốn sách “Cuộc hôn nhân không xứng đôi với Mỹ” (Mesalliance)1:

Những việc Nga muốn nhận
Tham gia trong liên minh chống khủng bố trên cơ sở đồng minh chiến lược

Những việc Nga đã nhận
Nga thực sự dâng nộp những vị trí địa chính trị ở các nước Trung Á; Vai trò của Mỹ tại Gruzia tăng lên đáng kể


Những việc Nga muốn nhận
Mỹ sẽ không từ bỏ Hiệp ước PRO

Những việc Nga đã nhận
13/01/2002, Mỹ đơn phương rút khỏi Hiệp ước PRO năm 1972


Những việc Nga muốn nhận
Cắt giảm song phương trang bị tiến công chiến lược

Những việc Nga đã nhận
Hiệp ước cắt giảm trang bị tiến công chiến lược được ký kết, phía Mỹ đã không hủy bỏ mà tàng trữ dự trữ hạt nhân của họ
___________________________________
1. Xem: báo Độc lập (Nga), số 191 (2745) ngày 11 tháng 9 năm 2002.
chuongxedap:

Những việc Nga muốn nhận
Thái độ tỏ ra trung thực của phương Tây đối với vấn đề Chesnia, công nhận những người theo chủ nghĩa phân liệt Chesnia là bọn khủng bố quốc tế

Những việc Nga đã nhận
Trong hai tháng đầu tiên sau ngày 11/9, sự phê phán hành động của quân đội Nga tại Chesnia lắng xuống, nhưng ngay sau đó lại được hồi sinh ở mức như trước


Những việc Nga muốn nhận
Loại bỏ một phần nợ nước ngoài

Những việc Nga đã nhận
Tuyên bố của Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ Alan Larson:”Không hề có sự cần thiết kinh tế để cứu Nga khỏi món nợ nước ngoài”


Những việc Nga muốn nhận
Công nhận Nga là một nước có nền kinh tế thị trường

Những việc Nga đã nhận
Ngoại trừ lời hứa, không hề có bất cứ động thái nào trong quan hệ với Nga được thực hiện. Hơn nữa, phương Tây đã công nhận Kazakstan là nước có nền kinh tế thị trường


Những việc Nga muốn nhận
Nga gia nhập WTO

Những việc Nga đã nhận
Mỹ rõ ràng đang kéo dàiviệc Nga gia nhập vào WTO, song bàn thân Nga cùng chưa sẵn sàng với điều này


Những việc Nga muốn nhận
Chấm dứt mở rộng NATO về phía Đông

Những việc Nga đã nhận
Trong thời gian tới là Rumania và Slovenia gia nhập NATO; việc đàm phán về các nước Ban Tích gia nhập NATO đang được tiến hành


Những việc Nga muốn nhận
Nga tham gia NATO như một đối tác, có quyền tính đến ý kiến của đất nước khi thông qua quyết định chiến lược quan trọng của NATO

Những việc Nga đã nhận
NATO chấm dứt hình thức về “điểm 12”, song đối với Nga chỉ là “cái ghế gấp”. Không có quyền biểu quyết


Những việc Nga muốn nhận
Gỡ bỏ Tu chính Jackson-Vanis

Những việc Nga đã nhận
Dù đạo luật này là cản trở hết sức phi lý sự phát triển quan hệ thương mại giữa Nga - Mỹ, việc điều chỉnh Tu chính Jackson-Vanis vẫn không được nghị viện Mỹ thông qua


Những việc Nga muốn nhận
Gỡ bỏ hạn ngạnh nhập khẩu thép Nga vào thị trường Mỹ

Những việc Nga đã nhận
“chiến tranh thép”của Mỹ chống Nga. Việc nhập khẩu đùi gà của Mỹ vào Nga tạm thời bị cấm.


Những việc Nga muốn nhận
Hợp tác Nga-Mỹ trong lĩnh vực năng lượng, nhập khẩu dầu mỏ Nga sang châu Mỹ

Những việc Nga đã nhận
Vào năm 2002, lần đầu tiên dầu mỏ của Nga được xuất sang Mỹ; đạt được thỏa thuận về việc cung cấp một số sản phẩm khác của ngành công nghiệp dầu mỏ Nga.
chuongxedap:

Bàn tay tài năng của các chuyên gia về công tác tổ chức đã được thể hiện rất rõ trong việc thành lập nên một cơ cấu mới có chức năng ngăn chặn các cuộc tấn công khủng bố. Ngày 26 tháng 11 năm 2002, Mỹ thành lập Bộ An ninh nội địa (Department of Homeland Security).

Hành động khủng bố ở Dubrovxk cũng có liên quan tới những “tài năng” về hệ thống này. Nếu bỏ qua, nó sẽ là tấm băng bịt mắt: song song với những sự kiện ở Dubrovxk và Pervomaixk là việc một nhóm vũ trang lọt vào bắt giữ một số lượng rất lớn con tin, đòi Quân đội Liên bang rút khỏi Chesnia, được phát thẳng lên các phương tiện thông tin đại chúng, gây nên một cơn sốc cho khán thính giả của phát thanh và truyền hình... Đây là yếu tố chủ yếu nhằm “làm mất mặt” Chính phủ Nga và toàn thể quốc gia Nga. Vì sao những hành động có quy mô như thế đã xảy ra? Lời giải thích đáng tin cậy nhất đã từng được đăng tải trên báo “Ngày mai” (Zavtra): “Theo những thông tin từ các nguồn bí mật, chuyến viếng thăm Matxcơva của đoàn đại biểu chính phủ của Arap-xêut, trong đó có cựu chỉ huy cơ quan mật vụ Thổ Nhĩ Kỳ, đã trở thành một cuộc điều tra về việc Er-riad (Thủ đô của Arap-xêut) nhận thức được mức độ tin cậy rất cao giữa hành động xâm lược chống Bagdad và “quá trình dân chủ hóa kiểu Mỹ” của chế độ chính trị ở ngay trong đất nước giàu có nhất thế giới Arap này. Liên quan tới chính việc này là trong vòng 3 tháng gần đây, gia đình Hoàng tộc đã nhận gần 300 tỷ USD từ Mỹ thông qua hệ thống ngân hàng của EU và Thụy Sỹ. Cũng theo nguồn tin này, người ta đã thảo luận về việc phía Nga sẽ lần lượt nhận được 200 tỷ USD trong vòng 25 năm với lãi suất 0% để thanh toán cho khoản nợ nước ngoài và đổi lại là “phong tỏa sự xâm lược của Mỹ” trong Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc - điều này cũng có nghĩa là Kremli phải thay đổi hoàn toàn định hướng chính trị đối ngoại của mình. Song, gió Bắc (Northward) đã nổi lên..”.

Giả thuyết này được khẳng định bằng phản ứng của Arap-xêut đối với sự xâm lược của Mỹ chống Badad. Ngày 15 tháng 10 năm 2002, Bộ trưởng Ngoại giao của Thái tử Saud all-Feisal đã tuyên bố rằng Chính phủ họ không ủng hộ chiến dịch của Mỹ chống I-rắc. Cùng ngày đó, Vua Marokko Mohammed VI, trong chuyến thăm Matxcơva, đã đề nghị với Tổng thống Nga V. V. Putin trở thành đối tác chiến lược (Cho tới thời điểm này, chỉ có Mỹ là đối tác chiến lược của Marokko). Song, gió Bắc (Northward) lại nổi lên...”, và cửa mở ra hướng Cận Đông đã phải đóng lại...

Ai, nếu không phải là RAND Coporation, có khả năng tạo ra được sự ly gián (bifurcation) này?

Trong quá trình thu thập tư liệu cho cuốn sách này, so với những người hoạch định ra những sự kiện này ở Mỹ, tôi mới chỉ là một người quan sát đứng xa các sự kiện đang phát triển ở Matxcơva, ở Kavkaz, ở Pri-Baltik,ở Berlin hay ở Bucarest. Tất cả những gì tôi đã có thể nhận thấy vẫn chỉ là “sau 10 năm”. Tuy nhiên tôi vẫn đưa ra giả thuyết của mình. Tôi cho rằng ở những người có khả năng nhận thức luôn tồn tại một số giai đoạn như:

1. Nhìn thấy tất cả, nhưng không hiểu gì. Và cho dù sau việc làm của ủy ban quốc gia về tình trạng khẩn cấp đã một năm rưỡi, các nhà hoạt động của nó đã khẳng định rằng CIA không hề dính líu gì tới sự kiện này, mà âm mưu đó là của họ.

2. Nhìn thấy tất cả và biết tất cả những gì đã được chúng tôi trình bày - đó là RAND Coporation. Thậm chí Gorbachov cùng chỉ là con số 0 trong vấn đề này.

3. Không nhìn thấy gì, không biết gì. Đó chỉ là những loại người chỉ chuyên sống trong rừng sâu.

4. Không nhìn thấy gì, nhưng biết tất cả. Đó là người người như chúng tôi và các bạn đọc lúc này. Chúng ta đã không có mặt kịp thời khi các sự kiện đang diễn ra. Chúng ta chỉ có thể nhìn thấy những gì trên TiVi, song đến lúc này, dẫu có quá muộn, chúng ta vẫn biết tất cả. Và Chúa không để chúng ta đánh giá sai lầm!
Bản thân chúng ta chỉ là khán giả, đôi khi, trong một khoảng thời gian ngắn, chính chúng ta cũng bị lôi lên sân khấu và làm người tham gia vào vở kịch đó...

Những người quan sát có thiện chí ở Mỹ, cho dù chưa đồng cảm được với chúng ta, khi bày tỏ thái độ kinh ngạc vì mức độ xuất sắc trong tiến hành công cuộc cải tổ, cũng khẳng định rằng “Việc phân tích những nguyên nhân làm Liên Xô sụp đổ, nếu tách rời khỏi đường lối của Mỹ, sẽ giống như việc điều tra về một cái chết bí ẩn, đột ngột và bất ngờ mà lại bỏ qua khả năng bị sát hại, thậm chí bỏ qua cả việc xem xét hoàn cảnh của cái chết đó. Cho dù nạn nhân đang mang trong mình một căn bệnh vô phương cứu chữa, thì nhân viên điều tra vẫn buộc phải xem có điều gì bất thường liên quan tới nó không... Cho tới nay, mối quan hệ giữa đường lối của Reagan và sự sụp đổ của ché độ Xô Viết còn chưa được nghiên cứu nhiều. Một số người cho rằng giữa đường lối Reagan và sự sụp đổ của Liên Xô chỉ tồn tại một mối liên hệ không đáng kể, và thậm chí là hoàn toàn không có”.

Thật ra, nếu giải thích những sự kiện này theo quan điểm “luật học” hiện đang thịnh hành, có thể nói rằng việc sát hại Liên Xô, hoặc chí ít việc đẩy nó tới tự sát là hoàn toàn có thật.

Vậy, Hợp chúng quốc Hoa Kỳ có tội trong “cái chết” này không? Họ có tội.

Ban lãnh đạo cao nhất của Liên Xô có là đồng phạm trong tội ác này không? Có.

Còn kẻ nào khác ngoài chúng? Đó là một số nhân vật ở Israel và các nước Tây Âu.

Và theo một cựu nhân viên CIA khẳng định, khi đưa ra bằng chứng từ tài liệu của RAND Coporation N-1713-NA, tháng 8 năm 1989) đề cập tới “Vai trò chiến lược bí mật của chính quyền Mỹ trong việc Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa tan rã”, rằng Trung Quốc đã tiến hành công tác tình báo nhằm vào Liên Xô từ năm 1952. Chỉ mãi tới năm 1963, Liên Xô mới tiến hành việc “đáp lễ”.

Mục đích chính trong cuốn sách này - đó là tìm kiếm lời đáp cho câu hỏi mà nhà thơ Nga vĩ đại, thiên tài Alekxandr Xergeievich Puskin đặt ra từ bao lâu nay: “... Thiên tài và độc ác - hai điều này có thể hợp nhau?”. Thưa rằng, chúng hợp nhau. Và điều này hoàn toàn trái ngược là chính “cái thiện” (không phải là cái thiện trừu tượng, tuyệt đối, mà là cái thiện có trong những bàn tay, con tim và khối óc của con người) mới không thích hợp, thậm chí đã không thể cảnh báo cho chúng ta về tai họa xảy ra...

Chúng ta là những người cuối cùng biết đến tất cả những điều này.

Theo cách diễn đạt của G. Soros, hiện nay đúng hơn là những công nghệ trí tuệ nhạy cảm, chứ không hẳn là “những đồng tiền lớn làm chính trị”.

Song, vấn đề đau đớn nhất là sự ủng hộ của dân chúng trong tất cả những sự kiện đó. Liệu dân chúng có lỗi gì trong giai đoạn đã diễn ra vào những năm 1985 - 1991 và khoảng 10 năm sau đó? Chính họ đã thuận theo mọi sự phá hoại do bị quyến rũ bởi những hào quang giả trá của “tự do” dân chủ và bởi những lời hứa hẹn về một cuộc sống sung túc, êm đềm. Về điều này, nhà văn nổi tiếng của chúng ta - Iuri Bondarev đã nói rất chính xác và khá đau đớn rằng: “Nhưng chúng ta đã chọn lựa ra các chính trị gia của mình, và trong thảm họa chủ yếu của chúng ta, chúng ta cần kiên quyết, thẳng thắn buộc tội chính mình, thói lười biếng tự suy nghĩ, tính ỷ lại và sự ngây ngô ấu trĩ về tư duy, thái độ tin tưởng vô vọng vào “sự may mắn” Thượng đế sẽ trao cho một cuộc sống sung túc.

Nhân dân đã không còn tự tôn, đúng hơn là họ đã rụt rè đòi chính quyền của những kẻ giàu có tôn trọng các quyền con người của mình. Họ run rẩy, sợ hãi khi bày tỏ thái độ phản kháng “những lãnh tụ” và sự xiểm nịnh của chúng trước phương Tây, để rồi không còn là chính mình nữa khi một bộ phận nhân dân trở nên đồi bại, hư hỏng. Bộ phận đó trở nên đố kỵ, độc ác, luôn ấp ủ những ước vọng về một cuộc sống an nhàn, thỏa mãn, giàu có dễ dàng mà hàng ngày họ vẫn thấy trên màn ảnh vô tuyến, như những gì được trang trí trên cây thông Noel. Bộ phận đó trở nên sa đọa bởi những cảnh tình dục kiểu Mỹ và kiểu Nga. Bộ phận đó không còn biết đến nỗi đau, nỗi bất hạnh và những tai họa của người khác; đám phụ nữ đã không còn biết xấu hổ, “cảnh cởi bỏ” đồ lót một cách thân mật đã trở nên bình thường, song những tấm thân trần truồng lại không gợi nên xúc cảm tự nhiên, mà chỉ gây ra những tiếng cười cay độc của những kẻ phụng thờ những điều bất thường”.

Liệu dân chúng có hồi tâm, chuyển ý, phá bỏ cái vòng sa đọa mà họ đã vô lo đưa đầu mình vào đó? Vấn đề vẫn còn bỏ ngỏ. Rốt cuộc, việc nước Nga vĩ đại có lao nhanh vào chỗ chết hay không - đang phụ thuộc vào chính họ.
chuongxedap:

Thời điểm của sự thật

Tất cả những gì được viết trong cuốn sách này đáng kể cho bạn đọc từ lâu rồi. Tuy nhiên, cũng cần phải có đủ thời gian, khi những sự kiện như thế này qua đi, thì đến lúc đó mới có thể tích lũy đủ những sự kiện, bằng chứng để bắt tay vào nghiên cứu. Cho dù có hơi muộn, nhưng chúng tôi đã nói được nhiều điều trong số những gì được biết. Công việc của chúng tôi, không hề nói quá lời, có một ý nghĩa hai mặt: nó vạch ra cả sự lừa dối được viết trong báo chí dân chủ và trong sách giáo khoa phổ thông, cả màn sương xám xuất hiện trong thời gian gần đây của những tuyên truyền mâu thuẫn về dấu hiệu và bị che phủ bởi những lời nói mơ hồ.

Sau đây sẽ có những lời giải thích, tranh luận, những nghi ngờ, phê phán, nhưng việc đó để sau... Bây giờ, chúng tôi cùng bạn đọc vèn tấm màn che phủ “sự thật” nhợt nhạt đó. Đối với chúng ta, thời điểm của sự thật đã điểm. Bạn đọc hãy cười lên khi đọc xong điều hồi tưởng nhỏ này về tương lai.

“... Thông báo của Đài phát thanh Matxcơva:

Mới đây tại Kremli đã tổ chức trao thưởng cho một nhóm các nhà khoa học Nga thuộc “Trung ương thần kinh” bí mật đã thực hiện việc hoạch định dự án “Phản cải tổ”...

Tòa án số 4 Matxcơva đã hoàn thành việc xét xử những kẻ phản bội Tổ quốc. Tất cả những kẻ bị buộc tội đã thú nhận tội lỗi... Danh sách đầy đủ sẽ được đăng trên các báo...

... Tại thành phố Santa-Monica (nguyên là lãnh thổ của Mỹ, đã bị Quân đội Nga chiếm đóng), trong tòa nhà của cái gọi là RAND Coporation đã diễn ra một cuộc thăm quan đầu tiên. Trên tầng hai của nghiệp đoàn này Phái đoàn đặc biệt của ủy ban An ninh quốc gia cường quốc đang làm việc.

Về tin thời tiết... trên toàn nước Nga - trời quang mây, còn phía Tây sắp có giông”. Novoxibirxk - Krasnoiarxk - Minxk - Matxcơva. Năm 2001 – 2002.
chuongxedap:

Phụ lục

Phụ lục N0 1.
861. 00/2-2246: điện báo của toàn quyền ở Liên Xô
(J. Kennan) gửi Ngoại trưởng Mỹ
Mật
  
                  
Matxcơva, 22 tháng 2 năm 1946, 21.00
                 
(Nhận ngày 22 tháng 2 năm 1946, 15h 52')
  
511. Trả lời yêu cầu 284 của Bộ Ngoại giao ngày 3 tháng 2 liên quan tới những vấn đề khá phức tạp, khá tế nhị và khá lạ đối với hình thái tư duy của chúng ta và khá quan trọng đối với việc phân tích của chúng ta về môi trường quốc tế, tôi không thể trình bày trong một thông báo ngắn gọn vì tôi hiểu được mức độ nguy hiểm của việc quá đơn giản. Vì vậy, tôi tin rằng mình sẽ được Bộ Ngoại giao hiểu đúng khi trả lời về vấn đề này trong 5 phần sau:
  
Những đặc điểm cơ bản của thế giới quan Xô Viết sau chiến tranh.
  
Lịch sử của thế giới quan này.
  
Sự phản ảnh của nó trong đường lối thực tế ở cấp độ chính thức.
  
Sự phản ảnh của nó ở cấp độ không chính thức.
  
Những kết luận thực tiễn từ quan điểm chính trị Mỹ.
  
Trước hết, tôi xin lỗi về việc sử dụng kênh điện báo; song những vấn đề này là không thể trì hoãn được, đặc biệt là khi xem xét những sự kiện mới xảy ra, nếu quan tâm tới những trả lời của chúng tôi về chúng thì cần giải quyết cấp bách.

Phần 1. Những đặc điểm cơ bản của thế giới quan Xô Viết sau chiến tranh
được bộ máy tuyên truyền chính thức sử dụng, bao gồm:

a- Liên Xô như trước đây vẫn ở thế đối kháng với tư bản chủ nghĩa và trong một thời gian dài không thể cùng tồn tại hòa bình. Năm 1927, Xtalin từng tuyên bố với đoàn đại biểu công nhân Mỹ: “Trong quá trình phát triển tương lai của cách mạng thế giới sẽ xuất hiện hai trung tâm mang tầm vóc quốc tế: trung tâm xã hội chủ nghĩa thu hút về mình những nước theo chủ nghĩa xã hội, và trung tâm tư bản chủ nghĩa bao gồm các nước thiên về chủ nghĩa tư bản. Cuộc chiến giữa hai trung tâm giành quyền kiểm soát nền kinh tế thế giới sẽ quyết định số phận của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới”.

b- Thế giới tư bản đang bị những xung đột nội bộ mang tính bản chất của xã hội tư bản. Những xung đột đó không thể giải quyết được bằng sự nhượng bộ hòa bình. Trong đó, xung đột giữa Anh với Mỹ là Lớn nhất.

c- Những xung đột nội bộ của chủ nghĩa tư bản sẽ tất yếu dẫn đến chiến tranh. Những cuộc chiến tranh do nguyên nhân này có thể diễn ra dưới hai dạng: những cuộc chiến tranh trong nội bộ tư bản chủ nghĩa giữa hai quốc gia tư bản và những cuộc chiến tranh can thiệp chống thế giới xã hội chủ nghĩa. Những kẻ tư bản chủ nghĩa láu lỉnh, do không tìm được lối thoát ra khỏi những xung đột nội bộ, sẽ thiên về cách giải quyết sau (gây chiến tranh chống các nước xã hội chủ nghĩa).

d- Cuộc can thiệp chống Liên Xô là thảm họa cho những kẻ gây chiến, sẽ có thể dẫn đến một sự kiềm chế mới đối với tiến bộ của chủ nghĩa xã hội ở Xô Viết, và đương nhiên cần phải bị chấm dứt bằng bất cứ giá nào.

e- Những xung đột giữa các quốc gia tư bản chủ nghĩa cũng đặc biệt nguy hiểm đối với Liên Xô, đồng thời cũng là những cơ hội to lớn để thúc đẩy sự nghiệp của chủ nghĩa xã hội, đặc biệt nếu Liên Xô duy trì được sức mạnh quân sự, tính nhất nguyên tư tưởng và lòng trung thành của mình đối với ban lãnh đạo kiệt xuất hiện nay.

g- Cần nhận thức rằng không phải cả thế giới tư bản chủ nghĩa đều xấu. Ngoài những phần tử tư sản và phản động, thế giới đó còn bao gồm: 1) Một số phần tử tích cực và rất văn hóa tập hợp trong các đảng cộng sản; 2) Một số phần tử khác (hiện nay vì những nguyên nhân chiến thuật, được coi là tiến bộ hoặc dân chủ), thì những hoài bão, sự hưởng ứng và hành động của họ là những thuận lợi “khách quan” cho các lợi ích của Liên Xô. Cần khích lệ và sử dụng họ vì những mục tiêu của Xô Viết.

h- Trong số những phần tử tiêu cực của xã hội tư sản - tư bản, những kẻ nguy hiểm nhất là những kẻ mà Lênin từng coi là những người bạn dân giả dối, đó là những thủ lĩnh phái chủ nghĩa xã hội dân chủ và chủ nghĩa xã hội ôn hòa (Nói cách khác, đó là cánh tả phi cộng sản). Những kẻ này nguy hiếm hơn cả những kẻ cực kỳ phản động bởi chúng núp bóng lá cờ chân chính, đồng thời như những thủ lĩnh cánh tả ôn hòa, chúng lừa dối mọi người, lợi dụng bản chất của chủ nghĩa xã hội để phục vụ cho tư bản phản động.

Tất cả những điều này là tiền đề, theo quan điểm của nền chính trị Xô Viết, sẽ đưa tới các kết luận sau:

a- Cần làm tất cả để tăng cường sức mạnh của Liên Xô thành những động lực trong cộng đồng thế giới. Đồng thời, không được phép bỏ qua một cơ hội nào làm suy giảm sức mạnh và ảnh hưởng của các cường quốc tư bản.

b- Những nỗ lực của Liên Xô, cũng như những nỗ lực của bè bạn ở nước ngoài của Nga cần được hướng vào việc làm sâu sắc thêm và lợi dụng những sự khác biệt, những mâu thuẫn giữa các cường quốc tư bản. Rốt cuộc, nếu chúng phát triển thành chiến tranh “đế quốc”, thì cuộc chiến tranh đó phải được biến thành cuộc khởi nghĩa cách mạng tại các nước tư bản chủ nghĩa.

c- Những phần tử “dân chủ, tiến bộ” ở nước ngoài phải được sử dụng tối đa để gây áp lực với chính phủ của các nước tư bản theo hướng bảo đảm những lợi ích của Liên Xô.

d- Cần tiến hành một cuộc đấu tranh liên tục chống lại những thủ lĩnh chủ nghĩa xã hội - dân chủ và chủ nghĩa xã hội ở nước ngoài.
chuongxedap:
   
Phần 2. Lịch sử của thế giới quan này
  
Trước khi xem xét những hậu quả của đường lối này trong thực tế, tôi muốn lưu ý tới một số khía cạnh sau đây của nó.

Thứ nhất, nó không phải là thế giới quan tự nhiên của nhân dân Nga. Nhân dân Nga, nói chung, có thái độ thân thiện với thế giới bên ngoài, luôn cố gắng giới thiệu mình với thế giới, sánh vai cùng thế giới bằng những tài năng của mình, luôn cố gắng sống cao hơn trong thế giới và hưởng thụ những thành quả lao động của mình. Đường lối của đảng chỉ là cương lĩnh mà bộ máy tuyên truyền chính thức bằng mọi cách, kiên trì áp đặt cho xã hội, mà xã hội sẽ không hoàn toàn chấp nhận. Tuy nhiên, đường lối của đảng xác định thế giới quan và hành vi của những người nắm bộ máy chính quyền - đảng, lực lượng cảnh sát mật và chính phủ, - những người mà chúng ta vẫn phải quan hệ công việc.

Thứ hai, dường như, phần lớn những tiền đề mà đường lối của đảng dựa vào đều không phù hợp với thực tế. Kinh nghiệm cho thấy, sự tồn tại hòa bình và cùng có lợi của các quốc gia tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa là hoàn toàn không thể. Những xung đột cơ bản bên trong của những quốc gia phát triển không phải là những xung đột được gây nên bởi hình thái tư bản về sở hữu phương tiện sản xuất, mà là những xung đột bắt nguồn từ chủ nghĩa đô thị phát triển và từ chủ nghĩa công nghiệp hóa. Nguyên nhân của việc nước Nga cho đến nay chưa gặp phải những xung đột này, không phải vì nó là xã hội chủ nghĩa, mà vì chính sự lạc hậu riêng của nó. Những mâu thuẫn bên trong của chủ nghĩa tư bản không phải lúc nào cũng dẫn đến chiến tranh; và cũng không phải mọi cuộc chiến tranh đều có thể giải thích bằng nguyên nhân này. Đó là điều hoàn toàn vô lý (nonsense) hiện nay để nói đến khả năng can thiệp chống Liên Xô sau khi thủ tiêu Đức và Nhật Bản, mà không tính đến tấm gương sau ngày chiến tranh. Không phải là những động lực thúc đẩy sự bất bình và không phải là lực lượng phá hoại, thế giới “tư bản” ngày nay hoàn toàn đủ sức tồn tại trong thế giới này với chính mình và với nước Nga. Cuối cùng, không một người nào có tư duy lành mạnh lại có cơ sở để nghi ngờ tính chân thành của các thủ lĩnh xã hội ôn hòa ở các nước phương Tây. Hơn nữa, cách phủ nhận bất công thành tựu những nỗ lực của các thủ lĩnh xã hội ôn hòa trong việc cải thiện tình hình của dân chúng lao động trong mọi trường hợp, ví dụ như tại Xcandinav, cũng chính là cơ hội cho thấy họ không đủ khả năng.

Tính chất dối trá của những tiền đề này có cội rễ từ lịch sử trước chiến tranh, và hoàn toàn thể hiện sự mâu thuẫn. Mâu thuẫn Anh - Mỹ đã không trở thành nguyên nhân cơ bản của thế giới phương Tây. Các nước tư bản, thông qua các nước trục, đã không thiên về giải quyết những mâu thuẫn của mình bằng liên minh thành một cuộc thập tự chinh chống Liên Xô. Thay vì biến chiến tranh đế quốc thành cuộc nội chiến và cách mạng, Liên Xô đã rơi vào tình huống buộc phải kề vai sát cánh với các cường quốc tư bản chiến đấu vì một mục tiêu chung nhất.

Ngoài ra, tất cả các cương lĩnh này, dẫu là lừa dối và vô căn cứ, ngày nay lại vẫn được nêu ra một cách tự tin đến thế. Điều này nói lên cái gì? Đó là đường lối của đảng Xô Viết không dựa trên bất cứ một phân tích khách quan nào về tình hình ở ngoài biên giới Nga; nó, rõ ràng, không có một cái gì chung với những điều kiện đang tồn tại ngoài nước Nga, và chủ yếu được đưa ra do những nhu cầu nội tại cơ bản, từng tồn tại từ trước cuộc chiến tranh cuối cùng và hiện nay đang tồn tại.

Trên quan điểm suy nhược thần kinh của Kremli về những vấn đề quốc tế, thái độ bản chất và truyền thống Nga mang tính chất nguy hiểm. Trước hết, đó là thái độ không tin cậy những con người hòa bình đang sản xuất trên lĩnh vực nông nghiệp nhằm cố gắng làm láng giềng sinh sống trong bình nguyên bao la cùng các dân tộc du mục hung tợn. Khi nước Nga đi vào xung đột với phát triển có nền kinh tế phát triển họ còn thêm một nỗi sợ hãi nữa trước những xã hội có uy tín hơn, hùng mạnh hơn, có tổ chức cao hơn trong lĩnh vực kinh tế. Tuy nhiên, nỗi sợ hãi này chỉ hiện diện chủ yếu trong giới cầm quyền Nga, trong nhân dân Nga bởi các nhà cầm quyền Nga luôn cầm thấy rằng cách thức cầm quyền của họ là tương đối cổ xưa, mỏng mảnh và nhân tạo trên cơ sở tâm lý, không đủ sức so sánh và tiếp xúc với những hệ thống chính trị ở các nước phương Tây. Vì nguyên nhân này, họ luôn lo ngại sự xâm nhập của nước ngoài, họ sợ tiếp những cuộc xúc trực tiếp với thế giới phương Tây, họ sợ tất thảy những gì có thể diễn ra, nếu những người Nga biết rõ sự thật về thế giới bên ngoài hoặc nếu những người nước ngoài biết rõ sự thật về thế giới bên trong nước Nga, và họ đã học được cách bảo đảm an ninh chỉ bằng biện pháp đấu tranh kiên trì, sống còn để tiêu diệt hoàn toàn lực lượng đối lập, mà không bao giờ chịu tương trợ và nhân nhượng với lực lượng đó.

Không hề là tình cờ, chủ nghĩa Mác, trong vòng nửa thế kỷ qua đang dần dần mục rữa ở Tây Âu, thì lại thực sự xuất hiện đầu tiên và chói sáng ở nước Nga. Chỉ trên mảnh đất này, nơi không bao giờ biết tới láng giềng thân thiện hay sự bình đẳng có thể chấp nhận được của một lực lượng đối lập nào đó, học thuyết này mới thịnh vượng thế, trong khuôn khổ đó nó được coi là không thể giải quyết những mâu thuẫn kinh tế của xã hội bằng những biện pháp hòa bình.

Sau khi hình thành chế độ Bolxevich, giáo lý Mác xít đã trở nên khắc nghiệt hơn và không thể chấp nhận do lối diễn giải nó theo kiểu Lênin, trở thành một cơ chế tình cảm hoàn toàn bất an mà những người Bolxevich và những người cầm quyền trên đây của Nga thường mắc phải, họ dùng giáo lý của nó để bào chữa cho nỗi sự hãi bản năng của mình trước thế giới bên ngoài; cho nền chuyên chính - một nền chính trị mà thiếu nó họ không biết phải điều hành ra sao; cho những hành động nghiệt ngã mà họ chưa kịp áp dụng; cho những nạn nhân mà họ coi là cần thiết. Vì chủ nghĩa Mác, họ đã hy sinh mọi giá trị thẩm mỹ trong các biện pháp và chiến thuật của mình. Ngày nay, họ không thể được tha thứ vì điều đó. Đó là một trang vô liêm sỉ trong sự đáng kính (respectable) về trí tuệ và đạo đức của họ. Thiếu nó, họ sẽ phải đối diện với lịch sử, trong trường hợp tốt nhất, chỉ như những kẻ cuối cùng trong một hàng dài những kẻ cầm quyền Nga độc ác và xa xỉ đã không ngừng đẩy đất nước lên những đỉnh cao mới của sức mạnh quân sự, để bảo đảm an ninh bên ngoài cho những chế độ đã suy yếu bên trong của mình. Chính vì vậy, những người Xô Viết đã phải gồng mình lên cho những thắng lợi tượng trưng bề ngoài của chủ nghĩa Mác và không một ai dám coi thường tầm quan trọng của giáo lý này trong sự nghiệp Xô Viết. Bằng cách đó, ban lãnh đạo Xô Viết đã đi tới những giáo lý rằng (...)1 thế giới bên ngoài độc ác, thù địch và nguy hiểm, còn mang trong mình những vi khuẩn và mầm bệnh và nó sẽ phải chết bởi những mâu thuẫn bên trong ngày càng tăng, ngay cả khi sức mạnh phát triển của chủ nghĩa xã hội xã hội chưa giáng cho nó một đòn chí mạng và nó sẽ không bao giờ chịu nhường lại vị trí của mình cho một thế giới mới, tiến bộ.

Quan điểm này đang là cơ sở cho việc tăng cường sức mạnh quân sự và cảnh sát của quốc gia Nga, cho sự cách ly nhân dân Nga với thế giới bên ngoài và cho việc gây áp lực để mở rộng giới hạn của sức mạnh cảnh sát Nga như là những nhu cầu tự nhiên và bản năng của các nhà cầm quyền Nga. Trên cơ sở này, điều đó chỉ là sự thúc đẩy chủ nghĩa dân tộc Nga - một sự vận động hàng thế kỷ, trong đó công thức tấn công và bảo vệ đã bị bị làm cho phức tạp tối đa. Tuy nhiên, trong diện mạo mới của chủ nghĩa Mác quốc tế với những hứa hẹn ngọt ngào của mình với những con người đã tuyệt vọng, đã từng thiệt hại vì chiến tranh, thì nó trở nên nguy hiểm và ác độc đối với thế giới bên ngoài hơn bao giờ hết.

Trên cơ sở những điều đã trình bày, cần nhận thấy rằng đường lối đảng Xô Viết đương nhiên là giả trá và không chân thực, khi nói tới tất cả những người đang tiến hành đường lối đó. Nhiều người trong số họ biết rất ít về thế giới bên ngoài và là những người rất lệ thuộc vào những định kiến của mình... *. Cuối cùng, chúng tôi đang gặp phải một bí mật không tài nào hiểu nổi liên quan tới việc ai là người ở mảnh đất vĩ đại ấy thực sự nhận được thông tin chính xác, không bị xuyên tạc về thế giới bên ngoài. Chính phủ này đang đắm mình trong bầu không khí bí ẩn và kín đáo kiểu phương Đông. Họ có vô vàn khả năng xuyên tạc hoặc đầu độc các nguồn tin và dòng thông tin. Thái độ thiếu tôn trọng đối với sự thật khách quan, chính họ thiếu tin tưởng về sự tồn tại của mình đã dẫn đến việc họ luôn xem xét mọi sự kiện như những phương tiện đi tới mục tiêu bí ẩn khác nhau. Có những cơ sở để nghi ngờ rằng chính phủ này thực sự là một âm mưu trong âm mưu; và riêng với tôi, khó mà tin được rằng chính Xtalin có được một bức tranh khách quan về thế giới bên ngoài. Không có một khả năng nào để các chính phủ nước ngoài dễ dàng áp đặt quan điểm của mình cho những nhà lãnh đạo Nga - quy mô này, trong quan hệ của họ với nước Nga đang phụ thuộc vào những cố vấn bí mật và vô danh, những người mà họ chưa bao giờ nhìn thấy và chưa bao giờ có thể tác động tới, điều này, theo tôi, là nét nguy hiểm nhất của nền ngoại giao ở Matxcơva, một nền ngoại giao mà các nhà hoạt động quốc gia phương Tây cần phải hiểu rõ, nếu họ muốn hiểu bản chất của những khó khăn mà họ sẽ gặp ở đây.
___________________________________
1. Đoạn này bị cắt theo Đạo luật Tự do thông tin của Mỹ.
chuongxedap:

Phần 3: Sự phản ảnh của thế giới quan Xô Viết
trong đường lối thực tế ở cấp độ chính thức.

Bây giờ chúng ta làm quen với đặc điểm và tiền sử của chương trình Xô Viết. Liệu chúng ta có thể chờ đợi điều gì trong kế hoạch thực hiện nó?

Đường lối Xô Viết, như từng được nhận định trong yêu cầu thích hợp của Bộ Ngoại giao, được tiến hành theo hai phương diện: 1) phương diện chính thức, được thể hiện bởi những hoạt động chính thức bởi Chính phủ Xô Viết; 2) phương diện bí mật của những hoạt động do các cơ quan tiến hành mà Chính phủ Xô Viết không thừa nhận trách nhiệm về những hoạt động đó.

Đường lối, được tiến hành trên cả hai phương diện, nhằm bảo đảm các hướng cơ bản của nó từ a) đến d) thuộc về phần thứ nhất. Còn những hoạt động được tiến hành theo các phương diện khác, có sự khác biệt lớn, song đều trùng hợp với nhau về tính mục đích, thời hạn và hậu quả.

Trong phương diện chính thức, cần chú ý tới những điểm sau:

a) Đường lối đối nội nhằm củng cố bằng mọi cách sức mạnh và vị thế của quốc gia Xô Viết: công nghiệp hóa quân sự mạnh mẽ; phát triển tối đa lực lượng vũ trang; khoa trương thanh thế nhằm đe dọa các nước; thường xuyên bảo mật các vấn đề nội bộ nhằm che dấu những yếu điểm và thông tin.

b) Trong mọi trường hợp, khi điều này được coi là hợp thời và nhiều hứa hen, họ sẽ cố gắng mở rộng phạm vi chính thức của sức mạnh Xô Viết. Vào thời điểm hiện nay, những nỗ lực đó đang bị hạn chế bởi một số điểm láng giềng, như: Bắc Iran, Thổ Nhĩ Kỳ, và có thể là cả Bornholm (một đảo nằm phía Tây Nam biển Baltik, thuộc Đan Mạch). Tuy nhiên, bất kỳ lúc nào những điểm khác cũng có thể xuất hiện, nếu sức mạnh chính trị Xô Viết bao trùm lên những vùng mới. Giông như Chính phủ vùng Pecxich “thân thiện” có thể đưa ra yêu cầu dành cho Nga một cảng tại Vịnh Pecxich. Nếu Tây Ban Nha rơi vào vòng kiểm soát của những người cộng sản, có thể nảy sinh vấn đề về căn cứ Xô Viết trong vùng vịnh Gibrantar. Tuy nhiên, những giằng co như vậy chỉ nảy sinh ở cấp độ chính thức khi sự chuẩn bị không chính thức đã hoàn thành.

c) Người Nga sẽ chính thức tham gia vào công việc của các tổ chức quốc tế trong trường hợp họ nhìn thấy khả năng mở rộng ảnh hưởng của Xô Viết hoặc kìm hãm hay giải tỏa ảnh hưởng của những nước khác. Matxcơva không coi Liên Hợp Quốc như một cơ chế thường trực và bền vững của cộng đồng thế giới dựa trên cơ sở của những lợi ích và mục đích của tất cả các nước, mà họi coi nó như một vũ đài bảo đảm khả năng giành được những mục tiêu đã nói ở trên.

Những người Xô Viết sẽ còn ở lại trong Liên Hợp Quốc cho tới khi nào tổ chức này còn phục vụ cho những mục tiêu của họ. Tuy nhiên, đến một khi nào đó, họ sẽ đưa ra kết luận rằng Liên Hợp Quốc gây tổn hại cho việc đạt tới mục tiêu mở rộng ảnh hưởng của họ, và nếu họ nhìn thấy những viễn cảnh tốt hơn để đạt mục tiêu của mình ở hướng khác, thì rõ ràng họ sẽ từ bỏ Liên Hợp Quốc. Điều này sẽ có nghĩa là, tuy họ coi mình đủ mạnh để phá vỡ sự thống nhất của các nước khác bằng cách họ từ bỏ tổ chức này, làm cho Liên Hợp Quốc trở nên kém hiệu quả trong việc đe dọa an ninh hay các mục tiêu của họ và thay thế tổ chức này bằng một công cụ quốc tế, theo quan điểm của họ, có hiệu quả hơn. Như vậy, thái độ của Xô Viết đối với Liên Hợp Quốc phần lớn sẽ tùy thuộc vào thái độ trung thành của các nước khác đối với tổ chức này và tùy thuộc mức độ nhiệt thành, kiên quyết và sự đoàn kết, từ đó các nước này sẽ bảo vệ công thức hòa bình và nhiều hứa hẹn của sinh hoạt quốc tế trong Liên Hợp Quốc, phù hợp với tư duy của chúng ta về tổ chức quốc tế này. Tội nhấn mạnh một lần nữa, rằng Matxcơva không hề trung thành với những lý tưởng của Liên Hợp Quốc. Thái độ của nó đối với tổ chức này, nói chung, sẽ vẫn là thực dụng và mang tính sách lược.

d) Đối với các khu vực thực dân và những dân tộc lạc hậu, còn phụ thuộc, đường lối Xô Viết thậm chí ở cấp độ chính thức sẽ nhằm làm giảm sút sức mạnh, ảnh hưởng và mối quan hệ của các nước phương Tây phát triển, họ tuân theo học thuyết rằng chừng nào đường lối đó còn được tiến hành thành công, nó sẽ tạo ra khoảng trống để chủ nghĩa cộng sản Xô Viết thâm nhập. Như vậy, áp lực Xô Viết đối với việc tham gia thỏa thuận bảo trợ, theo ý kiến của tôi, là cố gắng tạo ra khả năng ngăn cản và kiềm chế ảnh hưởng của phương Tây tại những địa điểm đó, chứ không hẳn là tạo ra một kênh để gây ảnh hưởng Xô Viết. Không nền cho rằng lý do cuối này là không có, bởi trong mục tiêu này, Xô Viết vẫn đang ưu tiên tạo dựng những kênh khác, không chính thức về thỏa thuận bảo trợ. Vì vậy, có thể tin rằng người Xô Viết sẽ đòi hỏi về việc tham gia vào bất cứ thỏa thuận bảo trợ nào hoặc mọi thỏa thuận tương tự và vẫn sẽ sử dụng những phương châm như cũ để làm suy giảm ảnh hưởng của phương Tây lên những dân tộc này.

e) Người Nga sẽ tích cực cố gắng mở rộng sự đại diện Xô Viết và những mối quan hệ chính thức với các nước, trong đó, theo họ, là có những khả năng to lớn đối lập với những trung tâm quyền lực phương Tây. Điều này liên quan tới hàng loạt điểm địa lý rải khắp thế giới, như: Đức, Argentina, các nước Cận Đông, v.v...

g) Trong những vấn đề kinh tế quốc tế, đường lối Xô Viết sẽ thực sự được xác định bằng nỗ lực của Xô Viết đối với việc tự cung tự cấp. Đây sẽ là đường lối cơ bản. Nếu liên quan tới đường lối chính thức, thì quan điểm này chưa thật rõ ràng. Chính phủ Xô Viết tỏ ra có một thái độ kiên trì đáng sợ kể từ khi chấm dứt thái độ thù địch trong lĩnh vực thương mại quốc tế. Nếu có được những khoản tín dụng lớn dài hạn, tôi cho rằng, Chính phủ Xô Viết sẽ lại một lần nữa có thái độ giả dối như đã từng xảy ra vào những năm 30, do mong muốn phát triển các mối quan hệ kinh tế quốc tế nói chung. Trong trường hợp ngược lại, tôi cho là có khả năng ngành ngoại thương Xô Viết có thể bị hạn chế đáng kể chính phạm vi an ninh Xô Viết, bao gồm những vùng đang bị chiếm của Đức và có thể có thái độ chính thức lạnh nhạt đối với nguyên tắc hợp tác kinh tế chung giữa các nước.

h) Còn về hợp tác văn hóa, cũng có thể nhận thấy sự ủng hộ thiếu chân thành đối với nguyện vọng tăng cường hợp tác văn hóa giữa các dân tộc, tuy trên thực tế điều này không thể diễn giải được bằng bất cứ cách gì là tiềm năng làm suy giảm mức độ an ninh của các dân tộc Xô Viết.. những biểu hiện thực tế của đường lối Xô Viết trong mặt này sẽ bị hạn chế bởi những kênh hẹp của các chức năng và các chuyến viếng thăm chính thức được kiểm soát một cách thận trọng, được đặc trưng bởi sự thừa thãi rượu vodka và lời tuyên bố và thiếu hẳn những kết quả thường xuyên.

i) Qua đó, những mối quan hệ chính thức của Xô Viết sẽ được thực hiện phù hợp với cái gọi là đường lối “đúng đắn” đối với chính phủ nước ngoài, đặc biệt chú trọng tới vị thế của Liên Xô và những đại diện của họ, cũng như tới sự thực hiện nghiêm văn bản.
Phần 4: Sự phản ảnh của nó ở cấp độ không chính thức hay bí mật,
nghĩa là ở cấp độ mà Chính phủ Xô Viết sẽ không nhận lãnh trách nhiệm về mình
  
Những thiết chế dưới đây được vận dụng để tiến hành đường lối ở cấp độ này:
  
1. Hạt nhân trung tâm bên trong của các đảng cộng sản ở các nước khác. Có thể chỉ ra rằng nhiều nhân vật thuộc phạm trù này đang hành động với tư cách cá nhân, tuy nhiên trong thực tế họ đang hoạt động trong khuôn khổ của một ban điều hành chủ nghĩa cộng sản thế giới, của một quốc tế cộng sản bí mật, được Matxcơva hoạch định và lãnh đạo một cách nghiêm ngặt. Cần phải nhớ rằng hạt nhân bên trong này thực sự hành động trong cơ sở bí mật, cho dù những đảng mà nó liên hiệp đang tồn tại hợp pháp.

2. Những đảng viên thường của các đảng cộng sản. Cần chú ý sự khác biệt giữa họ với những nhân vật được nói tới trong điểm 1. Trong những năm gần đây, sự khác biệt đã trở nên gay gắt. Trước hết, những đảng cộng sản nước ngoài đã tỏ ra có sự pha tạp đáng ngại (theo quan điểm của Matxcơva là bất lợi) giữa hoạt động bí mật và hợp pháp, tuy hiện nay yếu tố bí mật được tập trung một cách thận trọng trong phạm vi nội bộ và nhằm vào hướng bí mật, đồng thời những đảng viên thường - đơn giản là họ không tham gia hoạt động này - lại đang tiến lên phía trước như những kẻ tiên phong cho khuynh hướng chính trị bí mật ở đất nước của mình, hoàn toàn không hình dung ra mối quan hệ bí mật với các quốc gia nước ngoài. Chỉ ở một số nước có những đảng viên cộng sản mạnh về chất lượng họ mới thể hiện và hoạt động như một tổ chức. Thường là họ được sử dụng để thâm nhập và gây ảnh hưởng hoặc để kiểm soát, tùy theo hoàn cảnh, đối với các tổ chức khác có khả năng làm công cụ ảnh hưởng của Chính phủ Xô Viết, đồng thời để giành những mục tiêu của họ thông qua... (bị kiểm duyệt), chứ không hoạt động trực tiếp cho một đảng chính trị nào.

3. Quy mô rộng lớn của những tổ chức dân tộc hoặc của những tổ chức có thể thống trị được hoặc những tổ chức có thể thâm nhập được. Đó là: các công đoàn, đoàn thanh niên, tổ chức phụ nữ, các hiệp hội mang tính chất dân tộc, các tổ chức tôn giáo, các tổ chức xã hội, các nhóm văn hóa, những nhà báo tự do, các nhà xuất bản tư nhân...

4. Các tổ chức quốc tế có thể thâm nhập bằng cách gây ảnh hưởng đối với các phần tử dân tộc. Quan trọng nhất trong số này là các tổ chức công đoàn, đoàn thanh niên và phụ nữ. Về mặt này, phong trào công nhân quốc tế có một ý nghĩa đặc biệt, thậm chí mang tính chất quan trọng sống còn. Matxcơva đang coi đây là một khả năng bỏ qua các chính phủ phương Tây trong những vấn đề quốc tế và thiết lập được sự ủng hộ (lobby) quốc tế để buộc các chính phủ ở các nước khác nhau phải chấp thuận những giải pháp có lợi cho Xô Viết, và làm tê liệt những hành động thù địch đối với lợi ích của Liên Xô.

5. Nhà thờ chính thống Nga với các chi nhánh của nó ở nước ngoài và thông qua nó là nhà thờ chính thống ở phương Đông nói chung.

6. Phong trào toàn xlavơ và những phong trào khác (của Armenia, Azerbaidzan, Turkmenia, ...) dựa trên các nhóm dân tộc trong khuôn khổ của Liên Xô.

7. Các chính phủ và các nhóm cầm quyền, ở mức độ nhất định, sẵn sàng tạo điều kiện cho những mục tiêu của Xô Viết, cũng như chính phủ của các nước Bun Ga Ri và Nam Tư, chế độ ở vùng Bắc vịnh Pecxich, những người cộng sản Trung Quốc và v.v... Không chỉ là những bộ máy tuyên truyền, mà cả đường lối thực tế của những chế độ này có thể tuân thủ theo sự điều khiển của Liên Xô.

Có thể dự kiến rằng những bộ phận hợp thành của bộ máy to lớn này, tùy theo tính chất của riêng chúng, sẽ sử dụng những phương thức sau:

a) Để phá hoại tiềm năng chính trị và chiến lược chung của các cường quốc phương Tây. Những nước này sẽ tập trung mọi nỗ lực để phá hoại niềm tin vào sức mạnh riêng ở cấp độ dân tộc, kiềm chế các biện pháp phòng thủ quốc gia, kích động thái độ bất bình trong sản xuất và xã hội, kích động mọi hình thức làm tan rã khối thống nhất. Tất cả những ai có lý do để bất bình, cho dù là vì những nguyên nhân kinh tế hay chủng tộc, sẽ thực sự được kích động đòi giải quyết những vấn đề của họ, không phải bằng cách không nhân nhượng hay hợp tác, mà bằng cách đấu tranh quyết liệt nhằm phá hoại các thành phần khác của xã hội. Trong trường hợp này, người nghèo sẽ chống đối lại người giàu, người da đen sẽ chống lại người da trắng, thanh niên chống đối lại những người đứng tuổi, những người đến ngụ cư sẽ chống lại những người đã từng sinh sống lâu đời tại các địa phương, v.v...

b) ở cấp độ không chính thức, những biện pháp đặc biệt độc ác sẽ là làm suy yếu sức mạnh và ảnh hưởng của các cường quốc phương Tây đối với các dân tộc bị phụ thuộc và thực dân lạc hậu. Mọi biện pháp sẽ được sử dụng ở cấp độ này. Chúng sẽ phanh phui và lợi dụng những sai lầm và yếu điểm của bộ máy hành chính thực dân phương Tây. Dư luận xã hội tự do ở các nước phương Tây sẽ được huy động nhằm mục đích làm suy yếu chính sách thực dân. Chúng sẽ khích lệ khuynh hướng của những lực lượng này để giành độc lập đối với các cường quốc phương Tây, những thể chế chính trị tay sai do Xô Viết thống trị sẽ sẵn sàng giành chính quyền tại những vùng thuộc địa thích hợp sau khi chúng giành được độc lập.

c) Trong trường hợp, khi có chính quyền nào đó đứng cản đường giành mục tiêu này của Xô Viết, chúng sẽ gây áp lực để thay đổi chính quyền. đó. Điều này có thể diễn ra khi chính quyền trực tiếp chống lại những mục tiêu trong đường lối đối ngoại của Xô Viết (như Thổ Nhĩ Kỳ, Iran), hoặc khi chính quyền đóng cửa biên giới nhằm tránh sự thâm nhập của cộng sản (như Thụy Điển, Bồ đào Nha) hoặc khi chúng cạnh tranh quyết liệt với chính quyền, như chính phủ Công đảng ở Anh, nhằm thống trị tinh thần đối với các phần tử mà những người cộng sản cho là quan trọng. (thườngtrong trường tương tự thì có đủ chỗ cho cả hai thành phần. Đảng cộng sản đối lập khi đó sẽ trở nên quyết liệt và độc ác)

d) Tại những nước khác, những người cộng sản thông thường sẽ cố gắng tiêu diệt mọi hình thức độc lập cá nhân về kinh tế, chính trị hay tinh thần. Hệ thống của họ có thể chỉ liên hệ với những nhân vật hoàn toàn độc lập đối với quyền lực cao nhất. Rõ ràng, đó là những nhân vật độc lập về tài chính, như các doanh nhân, các chủ đất, những chủ trang trại thành đạt, những người thợ thủ công và tất cả những ai có chức năng lãnh đạo ở cấp địa phương hay có uy tín tại địa phương, ví dụ như các nhà hoạt động chính trị và tôn giáo có danh tiếng ở địa phương đã bị rút phép thông công. Không phải vô cớ mà ở Liên Xô, thậm chí những người lãnh đạo địa phương thường xuyên bị thuyên chuyển công tác, đó chính là vì họ không được phép cắm rễ ở bất cứ đâu.

e) Chúng sẽ làm tất cả những gì có thể để các cường quốc phương Tây đối đầu nhau. Trong những người Mỹ sẽ lan truyền những âm mưu chống lại người Anh, còn ở Anh sẽ có những âm mưu chống Mỹ. Chúng sẽ dạy cho người châu Âu, kể cả người Đức, lòng căm thù đối với hai cường quốc ănglo xác xông. Chỗ nào có sự bất đồng, chúng sẽ hâm nóng thêm, còn những nơi nào chưa có, chúng sẽ làm lan truyền. Chúng sẽ áp dụng mọi nỗ lực để kỳ thị và phá tán mọi biện pháp có nguy cơ tạo nên bất kỳ sự đoàn kết và thống nhất nào giữa những người ... (Bị kiểm duyệt), ngoại trừ mỗi nước Nga. Như vậy, bất kỳ loại hình tổ chức quốc tế nào không chấp thuận sự thâm nhập và kiểm soát của cộng sản, cho dù là thiên chúa giáo ... (Bị kiểm duyệt), về những vấn đề kinh tế quốc tế hay tình hữu nghị giữa các dân tộc, những đại diện của gia đình vua chúa và của tầng lớp quý tộc, nhất định bị đưa lên dàn hỏa thiêu và ... (Bị kiểm duyệt).

g) Nói chung, mọi nỗ lực của Xô Viết ở cấp độ quốc tế không chính thức sẽ có tính chất rất tiêu cực và thiếu tính xây dựng. Chúng se nhằm vào hướng phá hoại những cội nguồn của bất kỳ sức mạnh nào không nằm trong tầm kiểm soát của Xô Viết. Điều này hoàn toàn phù hợp với bản chất chủ yếu của Xô Viết - đó là không khoan nhượng với bất kỳ sức mạnh đối đầu nào và công việc xây dựng chỉ có thể được bắt đầu khi chính quyền cộng sản đã nắm quyền thống trị. Tất cả những điều này sẽ không ngừng gây áp lực để thâm nhập và giành quyền kiểm soát đối với những vị trí then chốt trong bộ máy hành chính, đặc biệt là trong bộ máy cảnh sát của các quốc gia nước ngoài. Chế độ Xô Viết là một chế độ thiên về cảnh sát, được hình thành từ những âm mưu cảnh sát Nga hoàng tại một nửa bán cầu tăm tối. Chế độ đó đã quen với lối suy nghĩ, trước hết, theo quan điểm có sự hỗ trợ của cảnh sát. đây là điểm không bao giờ được phép bỏ qua khi cân nhắc những nguyên nhân Xô Viết.
chuongxedap:
  
Phần 5: Những kết luận thực tiễn từ quan điểm chính trị Mỹ.

Tóm lại, ở đây chúng ta có vấn đề về sức mạnh chính trị trung thành một cách cuồng tín với ý kiến cho rằng không thể chung sống (modus vivendi) cùng với Mỹ, rằng họ có ý nguyện và thấy cần thiết phải phá tan sự cân bằng bên trong của xã hội chúng ta, hủy diệt lối sống truyền thống của chúng ta, xóa bỏ ảnh hưởng quốc tế của quốc gia chúng ta nhằm bảo đảm cho nền an ninh của chính quyền Xô Viết. Sức mạnh chính trị đó có khả năng chi phối hoàn toàn lòng nhiệt thành của một trong những dân tộc vĩ đại nhất trên thế giới và những nguồn lực của một lãnh thổ quốc gia giàu có nhất trên thế giới. Sức mạnh đó đang được chuyển động bởi những dòng chảy mạnh mẽ của chủ nghĩa dân tộc Nga. Ngoài ra, sức mạnh đó còn bao trùm cả một tổ chức phát triển rộng lớn để tạo nên ảnh hưởng đối với các nước khác. Mà bộ máy đó lại đang bị lãnh đạo bởi những kẻ có kinh nghiệm và thành thạo chưa từng có trong lịch sử trong lĩnh vực hoạt động ngầm. Sức mạnh đó, rõ ràng không đủ khả năng để lĩnh hội hiện thực trong những hành động của mình. Khác với chúng ta, đối với họ, một quỹ đầy đủ những yếu tố khách quan về xã hội loài người không phải là phương thức để thường xuyên liên hệ và điều chỉnh thế giới quan, mà chỉ là một cái túi có sẵn để lựa chọn tự do và tùy thích những công cụ hỗ trợ cho thế giới quan đã định trước. Đây thực sự là một bức tranh không mấy dễ chịu. Vấn đề là cần có thái độ ra sao đối với sức mạnh đó. Đây là một nhiệm vụ thực sự vĩ đại nhất có liên quan tới nền ngoại giao của chúng ta. Nó phải trở thành điểm tựa cho toàn bộ công tác chính trị của chúng ta trong giai đoạn hiện nay. Cần có cách tiếp cận nó thận trọng và cảnh giác, tựa như đối với việc giải quyết vấn đề chiến lược to lớn trong quá trình chiến tranh, cần có một kế hoạch đầy đủ. Tôi không có ý định trả lời hết mọi yêu cầu qua bản báo cáo này. Nhưng tôi muốn tuyên bố rằng, chúng ta có đủ khả năng để giải quyết vấn đề này mà không sa vào một cuộc xung đột quân sự. Và để khẳng định ý kiến này, tôi muốn dẫn chứng ra đây một vài nhận thức lạc quan như sau:

1) Chính quyền Xô Viết, khác với chính quyền ở nước Đức phát xít, không hề là một chính quyền đơn giản và phiêu lưu. Nó đang hoạt động trên cơ sở của những kế hoạch đã được vạch ra. Nó không liều lĩnh khi không cần thiết. Tuy là một chính quyền không có khả năng nhận thức đối với logic lý trí, song nó rất nhạy cảm với logic sức mạnh. Vì nguyên nhân này, nó có thể dễ dàng lùi bước và thường bùng nổ vào những giai đoạn mà nó gặp phải sự chống đối mạnh mẽ. Do đó, nếu đối phương có đủ sức mạnh và tỏ ra sẵn sàng nhằm thẳng vào nó, thì nó ít khi làm như thế. Quan điểm thích hợp đối với những tình huống phát sinh là không để xảy ra những sự kiện liên quan tới việc làm suy giảm uy tín.

2) So với thế giới phương Tây nói chung, chế độ Xô Viết vẫn đang là một sức mạnh yếu kém hơn rất nhiều. Vì vậy, thành công của họ sẽ tùy thuộc vào mức độ hiện thực của sự đoàn kết, thái độ kiên quyết và tích cực mà thế giới phương Tây có thể đạt được. Chúng ta có đủ khả năng tác động vào yếu tố này.

3) Thành công của hệ thống Xô Viết, như các hình thái của quyền lực trong nước, vần chưa thể hiện hoàn toàn. Nó vẫn cần thể hiện rằng nó có thể chịu được thử thách quan trọng hơn của việc chuyển đổi quyền lực liên tục từ một nhân vật hay một nhóm người này sang cho một nhân vật hay một nhóm người khác. Sự chuyển đổi đầu tiên như vậy đã diễn ra nhân cái chết của Lênin và những hậu quả của nó đã gây chấn động tới quốc gia Xô Viết suốt 15 năm liền. Sự chuyển đổi lần thứ hai xảy ra sau cái chết của Xtalin. Song, thậm chí đó vẫn chưa phải là thử thách cuối cùng. Liên quan tới việc bành trướng lãnh thổ mới đây, hệ thống nội bộ Xô Viết sẽ phải chịu đựng hàng loạt thách thức giống như trước đây chế độ Nga hoàng đã phải gánh chịu. Trong vấn đề này, chúng tôi khẳng định rằng từ thời chiến tranh vệ quốc, nhân dân Nga chưa bao giờ thoát khỏi học thuyết của đảng cộng sản, như hiện nay. Đảng ở Nga giờ đây đã trở nên vĩ đại nhất, và vào thời điểm đó, là một bộ máy đặc biệt thành công của chính quyền chuyên chính, tuy nhiên nó không còn là nguồn động viên tinh thần nữa. Vì vậy, không nên coi sự vững chắc nội bộ và tính hiệu quả của nó là đã được khẳng định.

4) Toàn bộ tuyên truyền của Xô Viết trong khuôn khổ lĩnh vực an ninh Xô Viết chủ yếu là tiêu cực và không xây dựng. Nó dễ dàng trở nên đối lập với một chương trình mang tính xây dựng và có lý trí. Vì những nguyên nhân này, tôi nghĩ rằng chúng ta có thể tiếp cận một cách bình tĩnh và nhẹ nhàng việc giải quyết vấn đề về thái độ quan hệ với Nga. Để xác định cách tiếp cận này, tôi muốn vào phần kết luận những nhận xét sau:

     1, Trước hết, chúng ta cần chấp nhận và công nhận đặc điểm của phong trào này, như nó vốn có và chúng ta có liên quan. Chúng ta cần nghiên cứu sự bạo dạn, tính chất vô nguyên tắc, tính khách quan của nó, cũng như tính chất quyết liệt của nó trong việc không chấp nhận sự can thiệp tinh thần hay việc tin vào một bác sĩ đang chữa trị cho bệnh nhân khó bảo và nông nổi.

     2, Chúng ta cần bảo đảm để công chúng của ta biết đến tình hình thực tế ở Nga. ý nghĩa của vấn đề này không thể đánh giá hết được. Chỉ có báo chí thì không thể làm được việc đó. Đây là điều mà chủ yếu chính phủ phải làm - một chính phủ phải có kinh nghiệm to lớn và được thông tin tốt nhất về những vấn đề thực tiễn thích hợp. Tôi tin rằng trong đất nước của chúng ta hiện nay có không ít phong trào chống Xô Viết cuồng nhiệt, nếu nhân dân ta được hiểu biết đầy đủ hơn về hiện thực của tình hình. Không có gì đáng sợ hơn và nguy hiểm hơn sự thiếu thông tin. Ai đó có thể nói rằng việc đưa ra những thông tin về những khó khăn của chúng ta sẽ làm cho quan hệ Nga - Mỹ xấu đi. Tôi cho rằng, nếu trong vấn đề này còn có một nguy cơ hiện thực nào đó, thì đó là chúng ta cần phải dũng cảm đối mặt và càng sớm càng tốt. Tuy nhiên, tôi không cho rằng chúng ta đang liều lĩnh. Hy vọng của chúng ta ở đất nước này đặc biệt thấp, kể cả khi có xảy ra những cuộc biểu tình ủng hộ tình hữu nghị của chúng ta với nhân dân Nga. Tại nước này chúng ta không có những đầu tư tư bản cần bảo vệ, thực sự không có buôn bán để có thể mất, thực sự cũng không có những công dân của ta cần được bảo vệ và cũng có rất ít quan hệ văn hóa cần giữ gìn. Hy vọng duy nhất của chúng ta không phải ở những gì chúng ta đang có, mà ở những gì chung ta mong chờ. Và tôi khẳng định rằng chúng ta sẽ có nhiều cơ hội hơn để hiện thực hóa niềm tin của chúng ta, nếu công luận của chúng ta được giáo dục và nếu những mối quan hệ của chúng ta với người Nga được thiết lập trên nền tảng hiện thực, thực tế.

     3, Có nhiều điều tùy thuộc vào sự lành mạnh và lòng nhiệt thành của xã hội chúng ta. Chủ nghĩa cộng sản thế giới giống như ký sinh trùng mang bệnh, chỉ có thể sống trong người bệnh. Đây là điểm làm biến đổi đường lối đối nội và đối ngoại. Mỗi biện pháp dũng cảm và sắc bén nhằm giải quyết những vấn đề nội bộ của xã hội chúng ta, nhằm củng cố niềm tin vào sức mạnh của chính chúng ta, vào những nguyên tắc tinh thần xã hội và đạo đức của nhân dân ta sẽ là một chiến thắng về mặt ngoại giao đối với Matxcơva có giá trị ngang với cả ngàn bức công hàm ngoại giao và thông cáo chung. Nếu chúng ta không thể tránh khỏi định mệnh và sự thờ ơ với những yếu điểm của xã hội chúng ta, thì Matxcơva sẽ lợi dụng chính điều đó - Matxcơva không thể không tận dụng điều đó trong đường lối đối ngoại của mình.

     4, Chúng ta phải vạch ra trước các dân tộc khác một bức tranh mang tính xây dựng và tích cực hơn về một thế giới mà chúng ta muốn có, nếu không chúng ta sẽ lùi vào quá khứ. Chỉ kêu gọi mọi người phát triển các tiến trình chính trị như của chúng ta là chưa đủ. Nhiều dân tộc, chí ít là ở châu Âu, đã mệt mỏi và kinh sợ kinh nghiệm của quá khứ. Họ ngày càng quan tâm hơn tới an ninh, thậm chí là nền tự do trừu tượng. Họ mong muốn có được những lời khuyên, sự nhận lãnh trách nhiệm về mình. Chúng ta phải có một tình thế tốt hơn Nga để trao cho họ điều đó. Và điều này, nếu chúng ta không làm được, thì người Nga nhất định sẽ làm.

     5, Cuối cùng, chúng ta phải có lòng quả cảm và niềm tin để thực thi những phương pháp và công thức của riêng mình về xã hội loài người. Rút cuộc, mối nguy hiểm lớn nhất mà chúng ta có thể gặp phải khi giải quyết vấn đề của chủ nghĩa cộng sản Xô Viết là cơ hội để chúng ta cho phép mình trở thành chính những kẻ mà chúng ta đang đối đầu.

                     Kennan
chuongxedap:

Phụ lục N0 2.

Những trung tâm Xô viết học chủ yếu của Mỹ


Trường Quan hệ quốc tế
Đại học tổng hợp Columbia
  
Viện Nghiên cứu tương lai Liên Xô Averell Garriman
Đại học tổng hợp Columbia
  
Chương trình về các dân tộc Liên Xô
Đại học tổng hợp Columbia
  
Viện Nghiên cứu các vấn đề biến động quốc tế
Đại học tổng hợp Columbia
  
Viện Trung - Đông Âu
Đại học tổng hợp Columbia
  
Viện Đông Á
Đại học tổng hợp Columbia
  
Viện Nam Á
Đại học tổng hợp Columbia
  
Viện Trung Đông
Đại học tổng hợp Columbia
  
Viện Tây Âu
Đại học tổng hợp Columbia
  
Viện Những nghiên cứu Mỹ
Đại học tổng hợp Columbia
  
Viện Những nghiên cứu Mỹ La tinh và Tây Ban Nha - Bồ Đào Nha
Đại học tổng hợp Columbia
  
Viện Nghiên cứu về Israel và Do Thái
Đại học tổng hợp Columbia
  
Hội đồng về những nghiên cứu châu Âu
Đại học tổng hợp Columbia
  
Trung tâm Những nghiên cứu trong lĩnh vực
Đại học tổng hợp Columbia
  
Trung tâm Nghiên cứu kinh tế quốc tế
Đại học tổng hợp Columbia
  
Hội đồng Mỹ
Đại học tổng hợp Columbia
  
Trung tâm về những nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học xã hội
Đại học tổng hợp Columbia
  
Trung tâm Nghiên cứu quốc tế
Đại học tổng hợp New-York
  
Nhóm Nghiên cứu các vấn đề chủ nghĩa xã hội và dân chủ
Đại học tổng hợp New-York
  
Trung tâm A. Bildner về nghiên cứu bán cầu Tây
Đại học tổng hợp New-York
  
Viện Nghiên cứu các vấn đề hòa bình và phát triển ở Trung Đông
Đại học tổng hợp New-York
  
Hiệp hội Nghiên cứu các dân tộc ở Liên Xô và Đông Âu
Đại học tổng hợp New-York
  
Viện Nghiên cứu chính trị thế giới
Đại học tổng hợp New-York
  
Trung tâm Phục hồi dân chủ phương Tây
Đại học tổng hợp New-York
  
Hội Bảo vệ nhân quyền ở Đông Á
Đại học tổng hợp New-York
  
Quỹ Thế kỷ XX Đại học tổng hợp New-York
  
Trung tâm Cơ đốc giáo mang tên Joan XXIII
Đại học tổng hợp New-York
  
Trung tâm Nghiên cứu về Ki tô giáo ở phương Đông
Đại học tổng hợp New-York
  
Viện khoa học về phát triển học vấn
Đại học tổng hợp New-York
  
Viện Nghiên cứu các vấn đề an ninh trong quan hệ Đông - Tây
Đại học tổng hợp New-York
  
Trung tâm Nghiên cứu quốc tế
Đại học tổng hợp Cornell
  
Chương trình Những nghiên cứu so sách và chính trị đối ngoại
Đại học tổng hợp Siracusa
  
Viện Nghiên cứu chính trị thế giới
Đại học tổng hợp Siracusa
  
Viện Nghiên cứu nhân đạo
Đại học tổng hợp Siracusa
  
Trung tâm Thông tin chiến lược quốc gia
Đại học tổng hợp Siracusa
  
Ủy ban vì thế giới tự do
Đại học tổng hợp Siracusa
  
Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và quốc tế
Đại học tổng hợp Georgertown
chuongxedap:

Trung tâm Đạo đức học và Chính trị xã hội
Đại học tổng hợp Georgertown
  
Viện Những nghiên cứu trong lĩnh vực ngoại giao
Đại học tổng hợp Georgertown
  
Trung tâm Nghiên cứu Arập hiện đại
Đại học tổng hợp Georgertown
  
Trung tâm Chính sách di trú và Hỗ trợ người tỵ nạn
Đại học tổng hợp Georgertown
  
Viện Nghiên cứu Xô - Trung
Đại học tổng hợp Georger Washington
  
Trung tâm về Những nghiên cứu trong lĩnh vực liên lạc viên thông
Đại học tổng hợp Georger Washington
  
Trung tâm Nghiên cứu chính trị đối ngoại tại Washington
Đại học tổng hợp John Hopkins
  
Viện Nghiên cứu chính trị nước ngoài
Đại học tổng hợp John Hopkins
  
Viện Nghiên cứu Bruklin
Đại học tổng hợp John Hopkins
  
Viện Nghiên cứu Quốc phòng
Đại học tổng hợp John Hopkins
  
Viện Nghiên cứu Hải quân
Đại học tổng hợp John Hopkins
  
Đại học Quốc phòng
Đại học tổng hợp John Hopkins
  
Viện Nghiên cứu Smithson
Đại học tổng hợp John Hopkins
  
Trung tâm quốc tế dành cho các nhà khoa học Woodro Wilson
Đại học tổng hợp John Hopkins
  
Viện Nghiên cứu nước Nga tương lai J. Kennan
Đại học tổng hợp John Hopkins
  
Viện Nghiên cứu chính trị
Đại học tổng hợp John Hopkins
  
Viện Doanh nghiệp Mỹ nghiên cứu trong lĩnh vực chính trị - xã hội
Đại học tổng hợp John Hopkins
  
Quỹ Di sản
Đại học tổng hợp John Hopkins
  
Viện nghiên cứu chính trị quốc tế
Đại học tổng hợp John Hopkins
  
Viện cộng hòa quốc gia nghiên cứu các quan hệ quốc tế
Đại học tổng hợp John Hopkins
  
Viện Nghiên cứu Trung Đông
Đại học tổng hợp John Hopkins
  
Trung tâm Thông tin về những vấn đề quốc phòng
Đại học tổng hợp John Hopkins
  
Trung tâm Nghiên cứu các vấn đề an ninh quốc gia
Đại học tổng hợp John Hopkins
  
Hội đồng Đại Tây dương Mỹ
Đại học tổng hợp John Hopkins
  
Viện Nghiên cứu về tinh thần và các quan hệ quốc tế
Đại học tổng hợp John Hopkins
  
Viện Nghiên cứu chiến lược Mỹ
Đại học tổng hợp John Hopkins
  
Viện Những nghiên cứu quốc tế tương lai
Đại học tổng hợp John Hopkins
  
Viện Nghiên cứu Mỹ trong lĩnh vực khoa học hành vi
Đại học tổng hợp John Hopkins
  
Viện Bảo vệ hòa bình
Đại học tổng hợp John Hopkins
  
Trung tâm An ninh quốc tế
Đại học tổng hợp John Hopkins
  
Ủy ban về những vấn đề an ninh quốc gia
Đại học tổng hợp John Hopkins
  
Trung tâm Nghiên cứu Thiên chúa giáo quốc tế
Đại học tổng hợp John Hopkins
  
Viện Kiểm soát vũ khí hạt nhân
Đại học tổng hợp John Hopkins
  
Trung tâm Chính trị quốc gia
Đại học tổng hợp John Hopkins
  
Ủy ban Mỹ vì sự đồng thuận giữa Đông và Tây
Đại học tổng hợp John Hopkins
  
Nghiệp đoàn phục vụ phân tích
Đại học tổng hợp John Hopkins
  
Hội đồng quốc gia về những nghiên cứu Xô Viết và Đông Âu
Đại học tổng hợp John Hopkins
  
Trung tâm Nghiên cứu hoạt động của Quốc hội và Tổng thống
Đại học tổng hợp John Hopkins
  
Viện Nghiên cứu ký ức Batttell
Đại học tổng hợp John Hopkins
  
Ủy ban về nguy cơ hiện hữu
Đại học tổng hợp John Hopkins
  
Hội đồng vì một thế giới đầy sức sống
Đại học tổng hợp Mỹ
  
Quỹ quốc gia hỗ trợ nền dân chủ
Đại học tổng hợp Mỹ
  
Các công dân ngoài nước Mỹ
Đại học tổng hợp Mỹ
  
Liên minh vì sáng kiến phòng thủ chiến lược
Đại học tổng hợp Mỹ
  
Viện Nghiên cứu luật quốc tế
Đại học tổng hợp Mỹ
chuongxedap:
 
Viện đào tạo quân sự cấp cao
Đại học tổng hợp Mỹ
  
Viện Nghiên cứu chiến lược quốc gia
Đại học tổng hợp Mỹ
  
Trung tâm về các quan hệ quốc tế
Đại học tổng hợp Havard
  
Trung tâm Nghiên cứu Nga
Đại học tổng hợp Havard
  
Viện Phát triển quốc tế Haward
Đại học tổng hợp Havard
  
Trung tâm về nghiên cứu Đông Á
Đại học tổng hợp Havard
  
Viện Hoạt động chính trị
Đại học tổng hợp Havard
  
Trung tâm về khoa học và các quan hệ quốc tế trực thuộc
Trường Hoạt động quốc gia mang tên F. Kenedy
Đại học tổng hợp Havard
  
Trường Luật và Ngoại giao Fletserov
Đại học tổng hợp Taft
  
Viện Phân tích chính trị đối ngoại
Đại học tổng hợp Taft
  
Trung tâm Những nghiên cứu quốc tế và khu vực
Đại học tổng hợp Wermont
  
Trung tâm Nghiên cứu Đông Âu và Liên Xô
Đại học tổng hợp Conneticut
  
Trung tâm Nghiên cứu dư luận xã hội Rowper
Đại học tổng hợp Conneticut
  
Trung tâm Nghiên cứu khu vực và quốc tế
Đại học tổng hợp Yale
  
Trung tâm Phát triển chính trị nước ngoài
Đại học tổng hợp Brown
  
Viện Công nghệ Massachusetts
Đại học tổng hợp Brown
  
Trung tâm Nghiên cứu quốc tế
Đại học tổng hợp Brown
  
MITRE Coporation
Đại học tổng hợp Brown
  
Trung tâm Nghiên cứu văn học Nga mới
 Đại học tổng hợp bang Massachusetts
  
Viện Nghiên cứu các vấn đề phòng thủ và giải trừ quân bị
Đại học tổng hợp bang Massachusetts
  
Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Khoa học Mỹ
Đại học tổng hợp bang Massachusetts
  
Trung tâm Nghiên cứu quốc tế
Đại học tổng hợp Prinston
  
Chương trình Những nghiên cứu Nga
Đại học tổng hợp Prinston
  
Hội đồng về Nghiên cứu khu vực và quốc tế
Đại học tổng hợp Prinston
  
Trung tâm Tổng hợp nghiên cứu quốc tế
Đại học tổng hợp Pittsburg
  
Chương trình Nghiên cứu Đông Âu và Nga
Đại học tổng hợp Pittsburg
  
Trung tâm Nghiên cứu quốc tế tương lai
Đại học tổng hợp Miami
  
Viện Nghiên cứu chính trị đối ngoại
Đại học tổng hợp Miami
  
Chương trình Nghiên cứu Nga
Đại học tổng hợp Wisconsin - Medison
  
Trung tâm Nghiên cứu Đông Âu và Nga
Đại học tổng hợp Michigan
  
Tập đoàn tài chính liên đại học về những nghiên cứu xã hội và chính trị
Đại học tổng hợp Michigan
  
Trung tâm Nghiên cứu Xlavơ và Balkan
Đại học tổng hợp Chicago
  
Trung tâm Nghiên cứu Viễn Đông
Đại học tổng hợp Chicago
  
Trung tâm Nghiên cứu Về Trung Đông
Đại học tổng hợp Chicago
  
Trung tâm Ngôn ngữ và khu vực Nam Á
Đại học tổng hợp Chicago
  
Viện Nghiên cứu các vấn đề truyền thông
Đại học tổng hợp Illinoi
  
Trung tâm Đông Âu và Nga
Đại học tổng hợp Illinoi tại Urban-Sampein
  
Trung tâm Các quan hệ quốc tế
Đại học tổng hợp Indian
  
Viện Đông Âu và Nga Đại học tổng hợp Indian
  
Trung tâm Văn kiện về các quan hệ quốc tế
Đại học tổng hợp Notr-Dam
  
Viện Hudson
Đại học tổng hợp Notr-Dam
  
Trung tâm Merson về nghiên cứu và học vấn trong lĩnh vực an ninh quốc gia và chính trị xã hội Đại học tổng hợp bang Ohio
  
Nghiệp đoàn nghiên cứu thuộc ủy ban Brandt
Đại học tổng hợp bang Ohio
  
Viện các nghiên cứu Đông Âu và Nga
Đại học tổng hợp John Carrol
  
Trung tâm Nghiên cứu về NATO L. Lemnitser
Đại học tổng hợp Kent
Trường cao đẳng Island
Đại học tổng hợp Kent
  
Trung tâm về chính trị xã hội John M. Esbruc
Đại học tổng hợp Kent
  
Trung tâm Phát triển quốc tế
Đại học tổng hợp Mariland
  
Trung tâm Nghiên cứu về chính trị toàn cầu
Đại học tổng hợp bang Georgia
  
Viện Các quan hệ quốc tế mang tên W. Fullbright
Đại học tổng hợp Arkansas
  
Trung tâm Công nghệ chiến lược
Đại học tổng hợp Texas
  
Viện Nghiên cứu quân sự Đại học tổng hợp Texas
  
Trung tâm về Các lý thuyết khí động học, Nghiên cứu và Học vấn
Đại học tổng hợp Hàng không
  
Viện Nghiên cứu Không lực
Đại học tổng hợp Hàng không
  
Viện Nghiên cứu ba bên
Đại học tổng hợp Duke
  
Viện Nghiên cứu quốc tế Đại học tổng hợp Nam Carolina ở Columbia
Hiệp hội Nghiên cứu quốc tế
Đại học tổng hợp Nam Carolina ở Columbia
  
Trung tâm Nghiên cứu Đông Âu và Liên Xô
Đại học tổng hợp Kansas
  
Trung tâm Nghiên cứu quốc tế Kuingli
Đại học tổng hợp Minnesota
  
Dự án Hòa bình trên toàn thế giới Gardoll E. Stassen
Đại học tổng hợp Minnesota
  
Viện Nghiên cứu quốc tế của
Đại học tổng hợp California ở Berkeley
  
Viện Tương lai
Đại học tổng hợp California ở Berkeley
  
Chương trình Quan hệ Trung - Mỹ
Đại học tổng hợp Stanford
  
Trung tâm về Các vấn đề an ninh quốc tế và kiểm soát vũ trang
Đại học tổng hợp Stanford
  
Viện Nghiên cứu khoa học quốc tế Stanford
Đại học tổng hợp Stanford
  
Viện Huver về Các vấn đề chiến tranh, cách mạng và hòa bình
Đại học tổng hợp Stanford
  
Viện về Các vấn đề hợp tác và xung đột toàn cầu tại la Ioll
Đại học tổng hợp California
  
Viện Nghiên cứu quốc tế California tại la Ioll
Đại học tổng hợp California
  
Trung tâm về Quan hệ chiến lược và quốc tế tại Los Angeles
Đại học tổng hợp California
  
Viện Nghiên cứu chủ nghĩa quân phiệt và các khủng hoảng kinh tế
tại Los Angeles Đại học tổng hợp California
  
Viện Những nghiên cứu hiện đại
tại Los Angeles Đại học tổng hợp California
  
Trung tâm Nghiên cứu chủ nghĩa Mác tại Los Angeles
Đại học tổng hợp California
  
Quan điểm thập tự Thiên chúa giáo chống chủ nghĩa cộng sản
tại Los Angeles Đại học tổng hợp California
  
RAND Coporation
  
Trung tâm về Nghiên cứu hành vi Liên Xô trên thế giới
RAND Coporation tại Los Angeles
Đại học tổng hợp California
  
Viện Các khoa học hành vi phương Tây tại Los Angeles
Đại học tổng hợp California
  
Trung tâm Trao đổi kỹ thuật và văn hóa giữa Đông và Tây
(Trung tâm Đông - Tây) Đại học tổng hợp Hawaii
  
Viện Luật biển
Đại học tổng hợp Hawaii
  
Thư viện Quốc hội Mỹ
  
Hội đồng Các quan hệ quốc tế
  
Hiệp hội Kế hoạch hóa quốc gia
  
Quỹ Carnegi dành cho những mục tiêu hòa bình quốc tế
  
Những nghiên cứu Nga
Đại học tổng bang Iowa
  
Chương trình nghiên cứu Nga
Đại học tổng hợp Mỹ
  
Trung tâm Nghiên cứu Nga
Đại học tổng hợp Arizona
  
Chương trình Nghiên cứu Đông Âu và Liên Xô
Đại học tổng hợp Boston
  
Trung tâm về Nghiên cứu các nước và ngôn ngữ Xlavơ
Đại học tổng hợp Vanderbilt
  
Chương trình Nghiên cứu Nga tại Seattle
Đại học tổng hợp Washington
  
Trung tâm Nghiên cứu Nga tại Seattle
Đại học tổng hợp Washington
  
Trung tâm Nghiên cứu Đông Âu và Nga tại Charlotte
Đại học tổng hợp Virginia
  
Chương trình Nghiên cứu Đông Âu và Nga
Đại học tổng hợp George Washington
  
Chương trình Nghiên cứu Nga
Đại học tổng hợp Georgertown
   
chuongxedap:
  
Những nghiên cứu Đông Âu và Nga
Đại học tổng hợp Tây Michigan
  
Hội đồng Nghiên cứu Nga và Đông Âu
Đại học tổng hợp Yale
  
Trung tâm Nghiên cứu Nga và Đông Âu
Đại học tổng hợp California
  
Trung tâm Nga và Đông Âu tại Los Angeles
Đại học tổng hợp California
  
Trung tâm Nghiên cứu Xlavơ và Đông Âu
Đại học tổng hợp Colorado
  
Ủy ban về Nghiên cứu Liên Xô
Đại học tổng hợp Cornelli
  
Trung tâm Nghiên cứu Nga
Đại học tổng hợp bang Louisiana
  
Chương trình Nghiên cứu Liên Xô và Đông Âu
Đại học tổng hợp Massachusetts
  
Chương trình Nghiên cứu Nga
Đại học tổng hợp Minnesota
  
Trung tâm Nghiên cứu Nga và Đông Âu
Đại học tổng hợp Missouri
  
Chương trình Nghiên cứu Liên Xô và Đông Âu
Đại học tổng hợp Maryland
  
Chương trình Nghiên cứu Liên Xô và Đông Âu
Đại học tổng hợp Notre Dame
  
Hiệp hội Các giáo sư và giảng viên của Đại học tổng hợp bang New- York nhằm tiến hành nghiên cứu Nga và Đông Âu
  
Chương trình Nghiên cứu Nga và Đông Âu tại Binghamton
Đại học tổng hợp bang New- York
  
Chương trình Nghiên cứu Liên Xô, các nước Đông Âu và Trung Âu
tại Buffalo Đại học tổng hợp bang New- York
  
Ủy ban về Nghiên cứu Đông Âu tại Olbani
Đại học tổng hợp bang New- York
  
Trung tâm Nghiên cứu Xlavơ và Đông Âu
Đại học tổng hợp bang Ohio
  
Trung tâm Nghiên cứu Nga và Xô Viết
Đại học tổng hợp Oklahoma
  
Chương trình nghiên cứu Xô Viết
Trường cao đẳng Occidental
  
Trung tâm Nghiên cứu ngôn ngữ và các vùng Liên Xô, các nước Xlavơ
Đại học tổng hợp Pensillvania
  
Trung tâm Nghiên cứu Trung Âu
Đại học tổng hợp Portland
  
Những nghiên cứu Nga
Đại học tổng hợp Rocherter
  
Trung tâm Nghiên cứu Nga và Đông Âu
Đại học tổng hợp Rowen
  
Những nghiên cứu Nga
Trường cao đẳng Redclif
  
Chương trình chung những nghiên cứu Nga và Đông Âu
Đại học tổng hợp bang Bắc Carolina và Đại học tổng hợp Duke
  
Viện Nghiên cứu Xlavơ
 Đại học tổng hợp bang Bắc Ohio
  
Hội đồng về Những nghiên cứu Nga
Đại học tổng hợp Siracuse
  
Chương trình nghiên cứu Nga
Đại học tổng hợp Setton - Holls
  
Trung tâm Nghiên cứu Nga và Đông Âu
Đại học tổng hợp Stanford
  
Chương trình nghiên cứu Nga và châu Á
Đại học tổng hợp Stetson
  
Ủy ban về Nghiên cứu Đông Âu
Đại học tổng hợp Taxas
  
Chương trình nghiên cứu Liên Xô
Đại học tổng hợp Akron
  
Chương trình nghiên cứu Xô Viết
Đại học tổng hợp Emori
  
Viện Nghiên cứu Liên Xô
  
Ban Thông tin và Nghiên cứu về Nga
  
Hội đồng quốc gia về Nghiên cứu Liên Xô và các nước Đông Âu
  
Viện nghiên cứu xã hội, kinh tế và điều hành
Đại học tổng hợp bang Alaska
  
Hội Nghiên cứu các dân tộc Đông Âu, Bắc và Trung Á của Mỹ
  
Trung tâm Nghiên cứu miền Bắc
Đại học tổng hợp bang Vermont
  
Viện Ucraina
Đại học tổng hợp Harvard
  
Bộ môn Nghiên cứu Ural và Altai
Đại học tổng hợp bang Idiana
  
Quỹ Nghiên cứu Ucraina
  
Trung tâm Nghiên cứu Nga, Đông Âu và châu Á
Trường cao đẳng Boston
  
Viện Hồi ký Battel
  
Hội thảo Công nghệ tôn vinh luật pháp Sv. Vladimir
  
Chương trình nghiên cứu Liên Xô và khu vực Đông Âu
Đại học tổng hợp Havard
  
Khoa Những ngôn ngữ và văn học Xlavơ
Đại học tổng hợp George Washington
  
Phân ban Nga của Khoa Ngoại ngữ và văn học
Đại học tổng hợp Georger Mason
chuongxedap:
  
Khoa Văn học và ngôn ngữ Nga
Đại học tổng hợp Georgetown
  
Trung tâm chiến lược và kinh tế nghiệp đoàn
Đại học tổng hợp Duke
  
Hội thảo Nghiên cứu Nga
Đại học tổng hợp Yale
  
Phòng thí nghiệm Nghiên cứu những vấn đề dân chủ tại Los Angeles
Đại học tổng hợp California
  
Trung tâm Nghiên cứu hệ thống giáo dục xã hội
Đại học tổng hợp Kent
  
Phân ban Nga của Khoa Ngôn ngữ Xlavơ và Đức
Đại học tổng hợp Maryland
  
Viện Nghiên cứu Nhà hát và Kịch Đông Âu
Đại học tổng hợp thành phố New York
  
Hội nghị Xô - Mỹ về văn học Nga
Đại học tổng hợp Tây Bắc
  
Khoa Nga Trường cao đẳng Trinity
  
Trung tâm nghiên cứu Thiên chúa giáo phương Đông
Đại học tổng hợp Fordham
  
Viện Đào tạo tâm lý và quân sự
  
Tổ chức Nghiên cứu và đánh giá lịch sử quân sự
  
Hội đồng về những ưu tiên kinh tế
  
Trung tâm Phân tích chiến dịch hải quân
  
Trung tâm nghiên cứu Tình hình tôn giáo
và Quyền con người trong những xã hội khép kín
  
Trung tâm nghiên cứu các nước
Đại học tổng hợp Mỹ
  
Nghiên cứu những xã hội đang biến đổi
Trường cao đẳng Brooklyn
  
Viện Tâm lý chính trị
Trường cao đẳng Brooklyn
  
Viện Nghiên cứu so sánh các khu vực ở nước ngoài
Đại học tổng hợp Washington
  
Viện Tây Âu
Đại học tổng hợp Columbia
  
Văn phòng nghiên cứu kinh tế nông nghiệp
Đại học tổng hợp Chicago
  
Ủy ban Nghiên cứu văn học đối chiếu
Đại học tổng hợp Chicago
  
Viện nghiên cứu về những vấn đề của Khối Xô - Trung
  
Quỹ đào tạo kinh tế
  
Trung tâm nghiên cứu Nhà hát quốc tế
Đại học tổng hợp bang Kansas
  
Trung tâm nghiên cứu những phương pháp giải quyết xung đột
Đại học tổng hợp George Mason
  
Viện Cake về Những nghiên cứu chiến lược quốc tế
Đại học tổng hợp Clermont
  
Chương trình nghiên cứu Các vấn đề thế giới
Đại học tổng hợp Cornelli
  
Trung tâm nghiên cứu Đông Nam Á
Đại học tổng hợp Cornelli
  
Trung tâm nghiên cứu quốc tế
Đại học tổng hợp Cornelli
  
Trung tâm nghiên cứu quốc tế
Đại học Công nghệ Massachusetts
  
Trung tâm các vấn đề quốc tế Minesota
Đại học tổng hợp Minesota
  
Trung tâm nghiên cứu quốc tế
Đại học tổng hợp Pittsburg
  
Trung tâm nghiên cứu Giải quyết hòa bình các xung đột
Đại học tổng hợp Wener
  
Viện Nghiên cứu chính trị nước ngoài
Đại học tổng hợp Philadelphia
  
Viện Nghiên cứu quốc tế
Đại học tổng hợp bang Florida
  
Viện Nghiên cứu quốc tế
Đại học tổng hợp Ferli Dickinson
  
Hội thảo các trường đại học về vấn đề “Lực lượng vũ trang và xã hội”
Đại học tổng hợp Chicago
  
Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và chính trị nước ngoài
Đại học tổng hợp Chicago
  
Trung tâm Nghiên cứu các vấn đề thế giới
Đại học tổng hợp Akron
  
Trung tâm nghiên cứu quốc tế
Đại học tổng hợp Emori
  
Viện Quan hệ quốc tế
Đại học tổng hợp bang Utah
  
Hội đồng Đại Tây dương Mỹ
  
Phân hiệu Washington
Trung tâm Nghiên cứu chiến lược
  
Viện Phân tích chính trị nước ngoài
  
Viện Nghiên cứu chính trị nước ngoài
  
Viện Nghiên cứu những vấn đề hiện đại
  
Viện Hòa bình thế giới
  
Viện Quan hệ Mỹ - Liên Xô
  
Hội quốc tế về Nghiên cứu các vấn đề thế giới
  
Nghiệp đoàn Nghiên cứu Chính phủ
  
Viện Nghiên cứu lịch sử Eisenhower
  
Trung tâm TEMP - Tổ hợp Công nghiệp quân sự “General Electric”
  
Viện Nga của Quân đội Mỹ
  
Hãng Royteur
  
Ủy ban vì Hòa bình từ quan điểm sức mạnh
  
Phòng Nghiên cứu của Quốc hội
  
Viện Tìm kiếm chương trình hành động chung
  
Viện các vấn đề nhân đạo Espin
  
Trung tâm Washington Nghiên cứu chính trị đối ngoại Robert Oshud
  
Hiệp hội Mỹ “Đóng góp quốc gia vào nền dân chủ”
  
Hãng thông tấn Nghiên cứu các dự án tương lai về vấn đề phòng thủ
  
Trung tâm Meridian
  
Trường cao đẳng Oberlin
chuongxedap:

Phụ lục N0 3.
Những nhà xô viết học Mỹ

Brzezinxki Zbignaiev Alfred. Sinh năm 1928 tại Varsava, trong gia đình một nhà ngoại giao từng được bổ nhiệm công tác tại Canada; vợ là cháu của cựu Tổng thống Tiệp Khắc Benesa; nhập quốc tịch Mỹ năm 1958. Học vấn: tú tài và cử nhân tại Trường đại học tổng hợp Gilla (Montreal, Canada, năm 1949); tiến sĩ triết học tại Trường đại học tổng hợp Harward năm 1953. Năm 1953 - 1962 là nhân viên khoa học, sau là giáo sư Trung tâm nghiên cứu Nga của Trường đại học tổng hợp Harward; năm 1960 là giáo sư môn điều hành quốc gia Trường đại học tổng hợp Columbia; năm 1962 - 1976 là người sáng lập và là giám đốc đầu tiên của Viện Nghiên cứu các vấn đề về chủ nghĩa cộng sản (năm 1975 đổi thành Viện Những thay đổi quốc tế của Trường đại học tổng hợp Columbia; năm 1968 là cố vấn, thành viên Hội đồng Hoạch định chính sách Bộ Ngoại giao Mỹ; từ năm 1973 làm lãnh đạo Hội đồng Quan hệ quốc tế; năm 1977 - 1981 làm trợ lý cho Tổng thống J. Cater về vấn đề an ninh quốc gia; từ năm 1981 là cố vấn của Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và quốc tế của Trường đại học tổng hợp Georgetown ở Washington. Năm 1981 được thưởng Huy chương “Tự do”. Tác giả và đồng tác giả của 20 cuốn sách.

Billington Jams. Sinh năm 1929. Tú tài và cử nhân của Trường đại học tổng hợp Prinston năm 1950; tiến sĩ triết học của Trường đại học tổng hợp Oxford năm 1953. Quan tâm tới nước Nga ngay từ khi còn học phổ thông do hội chứng - Tại sao các nước châu Âu đã gục ngã trước đòn tấn công của Hítle, ngoại trừ Liên Xô; cuốn sách đầu tiên về nước Nga mà ông ta đã đọc là “Chiến tranh và hòa bình” của L. Tolxtoy. Năm 1953 - 1956 phục vụ trong quân đội với quân hàm trung úy. Từ cuối những năm 1950 là nhân viên khoa học của Trung tâm Nghiên cứu quốc tế Trường đại học tổng hợp Prinston; từ năm 1973 là giáo sư môn lịch sử Nga của trường này; từ năm 1975 làm Giám đốc Trung tâm quốc tế Những nhà khoa học mang tên V. Wilson của Trường đại học tổng hợp Smithsonian (Washington); năm 1985 là một trong số 6 chuyên gia tư vấn cho Tổng thống Mỹ R. Reagan trước chuyến đến Geneve gặp mặt lần đầu với M. X. Gorbachov; từ năm 1988 giữ cương vị Giám đốc Thư viện Quốc hội Mỹ; là chủ tịch Hiệp hội Mỹ Nghiên cứu Xlavơ; đã nhiều lần sang Liên Xô (lần đầu tiên vào năm 1957, sau đó viết bài “Sự hồi sinh của giới trí thức Nga”, đã từng làm việc tại Thư viện Lênin). Là chuyên gia trong lĩnh vực văn hóa Nga, thành viên của Hội đồng Quan hệ quốc tế. Tác giả của 3 cuốn sách.

Gollmen Marshall D. Sinh năm 1930. Học vấn: tú tài Trường đại học tổng hợp Pensilvania năm 1952; cử nhân Trường đại học tổng hợp Harward năm 1956; tiến sĩ triết học của Trường đại học tổng hợp Harward năm 1961. Những năm 1953 - 1955 phục vụ trong quân đội; từ năm 1957 là giảng viên môn kinh tế - chính trị, làm phó giáo sư, giáo sư rồi trưởng Khoa Kinh tế của Trường đại học tổng hợp Harward, thành viên ban Giám đốc ngân hàng; những năm 1964 - 1975 là thành viên ủy ban Những nhà dc; từ năm 1975 là đồng giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Nga Harward, thành viên của ban tư vấn Xô Viết học cho Tổng thống G. Bush tổ chức vào ngày 12 tháng 2 năm 1989. Tác giả của 11 cuốn sách về kinh tế Xô Viết và bài báo “Hãy giải tán, đừng trở thành thù địch” được đăng trên báo chí Xô Viết.

Dallin Alekxandr Davydovich. Sinh năm 1924 tại Berlin, đến nước Mỹ năm 1940, nhập quốc tịnh Mỹ năm 1943. Học vấn: tú tài Trường cao đẳng New-York năm 1946; cử nhân Trường đại học tổng hợp Columbia năm 1947 và thành tiến sĩ triết học của trường này vào năm 1953. Những năm 1943 - 1946 phục vụ trong quân đội. Những năm 1956 - 1971 là trợ giảng, phó giáo sư và giáo sư môn quan hệ quốc tế của Trường đại học tổng hợp Columbia (vào thời gian đó A. N. Iacovlev và O. D. Kalugin sang học tại trường này); những năm 1962 - 1967 là Giám đốc Viện Nga của trường này, đồng thời vào năm 1962 - 1970 là cố vấn của Bộ Ngoại giao Mỹ; năm 1971 - 1978 là giáo sư môn lịch sử và chính trị học, sau làm Chủ tịch ủy ban Kế hoạch hóa Nghiên cứu Nga và Đông Âu của Trường đại học tổng hợp Stanford; làm Giám đốc của Viện Garrimanov Nghiên cứu sâu về Liên Xô của Trường đại học tổng hợp Columbia; là Chủ tịch Hiệp hội Mỹ Nghiên cứu Xlavơ, Chủ tịch Hội đồng quốc gia về Nghiên cứu Xô Viết và Đông Âu; thành viên của Hội đồng Quan hệ quốc tế. Tác giả và đồng tác giả hoặc chủ biên của 14 cuốn sách về những nhân tố bên trong của đường lối đối ngoại Xô Viết.

Kan German. Sinh năm 1922, mất năm 1983. Học vấn: Trường đại học tổng hợp California, và Viện Công nghệ California. Những năm 1945 - 1946 là nhân viên của Hãng “Duglas Aercraft”; những năm 1952 - 1960 là cố vấn của ủy ban chính phủ về năng lượng hạt nhân; từ năm 1961 là sáng lập viên và Giám đốc của Viện Hudson chuyên nghiên cứu về những vấn đề chiến lược chính trị - quân sự Mỹ; cố vấn của Hãng “Boing”, Cục Động viên Bộ Quốc phòng Mỹ, Bộ Không quân Mỹ và làm việc cho RAND Coporation.

Kenan George (con). Sinh năm 1904. Học vấn: tú tài Trường đại học tổng hợp Prinston năm 1925. Những năm 1926 - 1949 làm trong ngành ngoại giao, trong thời gian đó đã làm tham tán tại Latvi; mùa xuân năm 1945 đã viết “Vị thế quốc tế của Nga sau khi kết thúc chiến tranh với Đức” theo yêu cầu của Bộ Ngoại giao Mỹ. Theo ông, phương Tây cần ra tay phát triển các sự kiện ở Liên Xô. Những năm 1949 - 1952 làm đại sứ Mỹ tại Liên Xô. Tác giả của cái gọi là “Bức điện báo dài” vào ngày 22 tháng 2 năm 1946 (xem Phụ lục 1). Bị trục xuất khỏi Liên Xô. Những năm 1961 - 1963 là đại sứ Mỹ tại Nam Tư; lãnh đạo Vụ Kế hoạch Bộ Ngoại giao Mỹ. Giáo sư môn chính trị học của Trường đại học tổng hợp Prinston. Là sáng lập viên và Giám đốc và Chủ tịch Viện Nghiên cứu chuyên sâu Nga tại Washington mang tên Kenan George (cha); thành viên của Hội đồng Quan hệ quốc tế. Tác giả của 12 cuốn sách. Ngày 5 tháng 4 năm 1989 đã phát biểu trước ủy ban Đối ngoại Thượng viện Mỹ đòi Mỹ phải phản ứng với công cuộc cải tổ ở Liên Xô.

Kissindger Herri Alfred. Sinh năm 1923 tại thành phố Fuert (Đức). Sống tại Mỹ từ năm 1938; nhập quốc tịch Mỹ năm 1943. Học vấn: tú tài Trường đại học tổng hợp Harward năm 1950; làm giảng viên của trường này năm 1952; tiến sĩ triết học của Trường đại học tổng hợp Harward năm 1954. Những năm 1943 - 1946 phục vụ tại ban tình báo Tập đoàn quân số 8 (Mỹ). Những năm 1954 - 1971 là giảng viên, phó giáo sư, giáo sư môn chính trị học tại Trường đại học tổng hợp Harward; Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu quốc tế; những năm 1957 - 1975 là cố vấn Hội đồng An ninh quốc gia Mỹ (SNC); 1969 -1975 là trợ lý đặc biệt của Tổng thống Nixon về an ninh quốc gia; 1973 - 1977 là Bộ trưởng Ngoại giao; từ năm 1978 là Chủ tịch ủy ban Tư vấn quốc tế của Ngân hàng Thương mại Mỹ “Chase Manhattan Bank”. Thành viên của ban Giám đốc Hội đồng Quan hệ quốc tế. Được trao Giả thưởng Nobell Hòa bình vì chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam. Tác giả của 11 cuốn sách.

Pips Richard. Sinh năm 1923 tại thành phố Chesyn (Ba Lan); di cư sang Mỹ năm 1940; nhập quốc tịch Mỹ năm 1943. Học vấn: tú tài Trường đại học tổng hợp Cornelli năm 1945; giảng viên Trường đại học tổng hợp Harward năm 1947; tiến sĩ triết học năm 1950. Những năm 1943 - 1946 phục vụ trong quân đội. Từ năm 1950 giảng dạy tại Harward. Những năm 1953 - 1962 là nhân viên khoa học của Viện Nghiên cứu Nga thuộc Trường đại học tổng hợp Harward; năm 1962 - 1964 là Phó giám đốc và năm 1968 - 1973 là Giám đốc viện này; trưởng nhân viên khoa học của Trung tâm Nghiên cứu chiến lược Trường đại học tổng hợp Stanford. Năm 1986 lãnh đạo nhóm “B” chuyên đánh giá về tiềm năng quân sự Xô Viết. Năm 1981 - 1982 là Vụ trưởng Vụ Đông Âu và Liên Xô của Hội đồng An ninh quốc gia Mỹ. Giáo sư lịch sử Trường đại học tổng hợp Harward. Đã vài lần đến Liên Xô. Tác giả các cuốn sách “Giáo dục của Liên Xô“, “Nước Nga trong chế độ cũ”, Quan hệ Xô - Mỹ trong thời đại giải trừ quân bị”. Thành viên biên tập của các tạp chí: “Bình luận chiến lược”, “Orbis”, “Tạp chí Nghiên cứu chiến lược”, “Chiến lược so sánh”.
chuongxedap:

Rise Condoleezza. Sinh ngày 14 tháng 11 năm 1954, người Mỹ gốc Phi, chưa lấy chồng. Tú tài chính trị học Trường đại học tổng hợp Denver; cử nhân Trường đại học tổng hợp Notr Dam (Indiana); tiến sĩ Trường Nghiên cứu quốc tế thuộc Trường đại học tổng hợp Denver (với luận văn “Mối quan hệ quân sự Liên Xô - Tiệp Khắc” được sự hướng dẫn của Dzosef Corbel - cha của M. Olbright, cựu đại sứ, xuất thân là người Tiệp Khắc). Biết tiếng Nga hoàn hảo. Vào cuối những năm 1970 đã thực tập 1 năm tại Trường đại học tổng hợp Lomonoxov (MGU). Từ năm 1981 là nhân viên khoa học của Chương trình cắt giảm vũ khí và giải trừ quân bị của Viện Huver; từ năm 1986 làm việc tại Hội đồng Quan hệ quốc tế, đồng thời là trợ lý của giám đốc Ban Những vấn đề kế hoạch hóa chiến lược hạt nhân của ủy ban Các tham mưu trưởng; từ năm 1989 làm tại Hội đồng An ninh quốc gia Mỹ là trợ lý đặc biệt của Tổng thống về an ninh quốc gia và là Vụ trưởng Vụ Những vấn đề về Liên Xô và Đông Âu. Ngay sau khi Bush (cha) tiếp nhận công việc của Ronald Reagan, bà ta đã cùng với 6 chuyên gia về Liên Xô và Đông Âu tổ chức một cuộc hội thảo dành riêng cho Tổng thống. Khi Elxin tới thăm Mỹ, ủy viên Hội đồng An ninh quốc gia Mỹ Scrowcfot đã tiếp ông ta tại Nhà Trắng thì chính bà là người phiên dịch. Những năm 1991 - 1993 bà ta là nhân viên khoa học của Viện Huver; từ năm 1992 là Hiệu trưởng Trường đại học tổng hợp Stanford và là giáo sư trẻ nhất về lịch sử của nhà trường.

Là thành viên Hội đồng Quan hệ quốc tế, thành viên Hội đồng Giám đốc của Hãng dầu mỏ “Sevron”, thành viên Hội đồng quốc tế của Ngân hàng “Morgan”. Từ năm 2001 là trợ lý Tổng thống Mỹ về an ninh quốc gia. Tác giả các cuốn sách: “Lòng chung thủy đáng ngờ: Liên Xô và Quân đội Tiệp Khắc”, “Kỷ nguyên Gorbachov”, “Những Đức thống nhất và Châu Âu đang chuyển đổi”.

Xirin Edwin Blak. Sinh năm 1915. Học vấn: tú tài Trường đại học tổng hợp Duke năm 1936; cử nhân Trường đại học tổng hợp Harward năm 1937; tiến sĩ triết học năm 1941 Trường đại học tổng hợp Harward. Từ năm 1939 là giảng viên, trợ lý, phó giáo sư và giáo sư môn lịch sử của Trường đại học tổng hợp Priston; những năm 1943 - 1946 là cố vấn Bộ Ngoại giao Mỹ về các nước Đông Âu; những năm 1950 - 1951 là nhân viên khoa học của Trường cao đẳng quân sự; những năm 1968 - 1986 là Hiệu trưởng Trung tâm Nghiên cứu quốc tế của Trường đại học tổng hợp Prinston, thành viên của Hội đồng Quan hệ quốc tế. Tác giả 7 cuốn sách, đồng tác giả và chủ biên của 9 cuốn sách về lịch sử Liên Xô và đường lối đối ngoại Xô Viết.

Taker Robert Charles. Học vấn: tú tài Trường đại học tổng hợp Michigan và Harward. Những năm 1944 - 1953 là tùy viên Đại sứ quán Mỹ tại Matxcơva . Những năm 1958 - 1962 là giáo sư bộ môn quốc gia và pháp luật của Trường đại học tổng hợp Idiana; từ năm 1962 là giáo sư chính trị học của Trường đại học tổng hợp Prinston, Giám đốc Chương trình nghiên cứu Nga của trường này vào những năm 1963 - 1973. Tư năm 1980 là giáo sư danh dự của Trường đại học tổng hợp Prinston, là nhà tâm lý chính trị, Chủ tịch Hội Xlavơ học của Mỹ. Tác giả của 11 cuốn sách và của bản báo cáo “Đồng hồ lịch sử Nga đang chỉ giờ nào?” đã từng được đăng trên báo chí Xô Viết.

Ulam Adam Bruno. Sinh năm 1922 tại thành phố Lvov; sang Mỹ từ năm 1939, nhập quốc tịch Mỹ vào năm 1949. Học vấn: tú tài Trường đại học tổng hợp Braun năm 1943; tiến sĩ triết học Trường đại học tổng hợp Harward năm 1947. Từ năm 1947 giảng dạy tại Harward; những năm 1953 - 1955 là nhân viên khoa học của Trung tâm Nghiên cứu quốc tế của Trường đại học Công nghệ Massachusets; từ năm 1959 là nhân viên khoa học; từ năm 1980 là Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Nga của Trường đại học tổng hợp Harward. Là một trong những người tham gia cuộc hội thảo Xô Viết học dành cho Bush (cha) vào ngày 12 tháng 2 năm 1989. Tác giả của 15 cuốn sách về lịch sử và đường lối đối ngoại Nga và Liên Xô.

Horelic Arnold. Lãnh đạo nhóm Nghiên cứu Liên Xô và các nước Đông Âu tại RAND Coporation; Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Hành vi của Liên Xô ở nước ngoài của RAND Coporation và Trường đại học tổng hợp California. Thành viên Hội đồng Quan hệ quốc tế. Từ năm 1987 là thành viên biên tập tạp chí “Kinh tế Xô Viết”; tác giả của 4 cuốn sách về đường lối đối ngoại và quân sự Liên Xô; Thông tin viên của Bush (cha) trước chuyến viếng thăm gặp lần đầu tiên với Gorbachov vào năm 1989.

Sulman Marshall Derrow. Sinh năm 1916. Học vấn: tú tài Trường đại học tổng hợp Michigan năm 1937, cử nhân Trường đại học tổng hợp Columbia năm 1948; tiến sĩ triết học Trường đại học tổng hợp Columbia năm 1959. Năm 1939 - 1940 nhân viên Chính phủ Mỹ tại Liên Hợp Quốc; những năm 1942 - 1946 phục vụ trong Lực lượng Không quân Mỹ với quân hàm đại úy; những năm 1950 - 1954 là nhân viên Bộ Ngoại giao Mỹ; những năm 1954 - 1962 là Phó giám đốc Viện Nghiên cứu Nga thuộc Trường đại học tổng hợp Harward; những năm 1967 - 1977 là giáo sư, Giám đốc Viện Nga trực thuộc Trường đại học tổng hợp Columbia; những năm 1977 - 1980 là cố vấn của Bộ trưởng Ngoại giao Wens và nghỉ hưu cùng ông ta. Là Giám đốc Hội đồng Quan hệ quốc tế vào những năm 1972 - 1977, thành viên Câu lạc bộ Billderberg. Tác giả của 5 cuốn sách về quan hệ Mỹ - Liên Xô. Chủ tịch Hội Những người Mỹ nghiên cứu Xlavơ.

Israel Dzeremi. Sinh năm 1935. Học vấn: tú tài Trường đại học tổng hợp Harward năm 1956; cử nhân Trường đại học tổng hợp Harward năm 1959; tiến sĩ triết học Trường đại học tổng hợp Harward năm 1961. Năm 1958 - 1959 sang Trường đại học tổng hợp Lomonoxov MGU thực tập (theo chương trình trao đổi với Iakovlev với Kalugin). Từ năm 1961 là trợ giảng, phó giáo sư, giáo sư chính trị học của Trường đại học tổng hợp Chicago, Chủ tịch ủy ban Nghiên cứu các nước Xlavơ của trường, lãnh đạo Dự án “Chủ nghĩa cộng sản so sánh”. Từ năm 1983 là thành viên Hội đồng Kế hoạch của Bộ Ngoại giao Mỹ. Từ năm 1985 là giáo sư chính trị học thuộc Trung tâm Nghiên cứu hành vi Liên Xô ở nước ngoài của RAND Coporation và Trường đại học tổng hợp California, Giám đốc RAND Coporation. Từng sang Liên Xô nghiên cứu trước sự kiện tháng 8 năm 1991. Tác giả và đồng tác giả của 5 cuốn sách về mối tương quan trong đường lối đối nội và đối ngoại Liên Xô.
Phụ lục N0 4.
Chỉ thị của Hội đồng An ninh quốc gia Mỹ (NSC) N0 20/1,
ngày 18 tháng 8 năm 1948
  
Tuyệt mật

Những mục tiêu của Mỹ đối với Nga.

Chỉ lệnh NSC 20/1 được ra đời để đáp ứng yêu cầu của Thư ký an ninh quốc gia Jams V. Forrestol cung cấp cho ông “một diễn đạt dễ hiểu của đường lối quốc gia” đối với Liên Xô, trên cơ sở đó, nếu thiếu cách diễn đạt đó “không thể có những quyết định lô gic...”1. được Bộ Tham mưu kế hoạch chính trị soạn thảo, tài liệu này thể hiện một quan điểm đầy đủ nhất thời đó về những mục tiêu của chính sách kiềm chế cần đạt tới.

Tài liệu xác lập hai mục tiêu chủ yếu của chính sách Mỹ đối với Liên Xô:

1) Làm giảm sức mạnh và ảnh hưởng của Liên Xô đến mức độ không thể đe dọa tới sự ổn định của thế giới;

2) Giành được những thay đổi căn bản trong lý luận và thực tế quan hệ quốc tế của Chính phủ Xô Viết.

Khác với Chỉ lệnh NSC 7 (tài liệu 20), Chỉ lệnh NSC 20/1 nhấn mạnh sự phân biệt giữa Liên Xô và phong trào cộng sản quốc tế và nhất trí với luận chứng trong PPS 35 (tài liệu 21), xem xét tới khả năng hình thành sự phân rã giữa chúng như một phương tiện giành những mục tiêu chính trị của Mỹ.

NSC 20/1 chú trọng tới thái độ mong muốn giành được những kết quả của chính sách kiềm chế bằng những phương tiện phi quân sự, mặc dù vẫn công nhận khả năng phát động, vô tình hoặc cố ý, chiến tranh. Trong phần kết luận, tài liệu đề cập tới vấn đề chính sách của Mỹ trong trường hợp đó. Đặc biệt là trong tài liệu chú trọng tới đường lối trung lập hóa, chứ không nhằm tiêu diệt chính quyền Xô Viết, đồng thời phủ nhận học thuyết đầu hàng vô điều kiện đã từng rất phổ biến trong chiến tranh thế giới II.

I. Nhập đề

Rõ ràng là Nga, vừa như một sức mạnh độc lập, vừa như một trung tâm của phong trào cộng sản thế giới, trong thời gian gần đây đã trở thành vấn đề chủ yếu trong chính sách quốc tế của Mỹ và trong nước đang xuất hiện thái độ quan tâm và bất bình sâu sắc với những mục tiêu và phương thức của các thủ lĩnh Xô Viết. Vì vậy, đường lối của Chính phủ chúng ta được xác định chủ yếu bởi ý nguyện của chúng ta làm thay đổi đường lối Xô Viết và thay đổi tình hình quốc tế.

Tuy nhiên, cho tới nay vẫn chưa có được một diễn giải chính xác về những mục tiêu của Mỹ đối với Nga. Và điều đặc biệt quan trọng, với quan điểm quan tâm hơn nữa của Chính phủ ta đối với Nga để những mục tiêu này được định hình và được chấp thuận bởi mọi cơ quan Chính phủ có liên quan tới vấn đề của Nga và chủ nghĩa cộng sản. Trong trường hợp ngược lại, có khả năng mọi nỗ lực trong việc giải quyết vấn đề có tầm quan trọng quốc tế đặc biệt này sẽ bị phân tán.

II. Dẫn luận

Có hai công thức ứng xử của các mục tiêu quốc gia đối với những nhân tố chiến tranh và hòa bình.

Công thức thứ nhất cho rằng, những mục tiêu quốc gia là thường xuyên và những thay đổi tình hình trong nước sẽ không thể có ảnh hưởng gì với chúng, như việc chuyển từ chiến tranh sang hòa bình; rằng phải thường xuyên thực hiện chúng bằng cả những phương tiện phi quân sự cũng như quân sự tùy theo từng trường hợp. Clausewitz2 đã diễn đạt chính xác nhất công thức này, rằng “chiến tranh là sự tiếp tục của chính trị được kết hợp với những phương tiện khác”.

Công thức đối lập cho rằng những mục tiêu quốc gia trong thời chiến và trong thời bình cơ bản không liên quan với nhau. Theo công thức này sự tồn tại của tình trạng chiến tranh sẽ tạo ra những mục tiêu chính trị riêng của nó, và vì lý do ưu tiên, chúng sẽ lấn át những mục tiêu thông thường của thời bình. Chính công thức này đã từng chiếm ưu thế chủ yếu trong đất nước chúng ta. Công thức này chiếm ưu thế chủ yếu trong cuộc chiến tranh vừa qua, khi chiến thắng trong chiến tranh chỉ ở mức như một chiến dịch quân sự và là nhiệm vụ chủ yếu của đường lối Mỹ, còn những nội dung khác đều lệ thuộc vào nó.

Rõ ràng, trong những mục tiêu của Mỹ đối với Nga, không một công thức nào trên đây có thể chiếm hoàn toàn ưu thế.

Trước hết, vì những nhiệm vụ của cuộc chiến tranh chính trị đang phát triển hiện nay Chính phủ chúng ta đã buộc phải xem xét những mục tiêu quân sự và xác định hơn đối với Nga ngay từ bây giờ, trong thời bình, hơn là những mục tiêu đối với Đức và Nhật bản trước ngưỡng cửa của những hành động quân sự thực tế với những nước này.

Hai là, kinh nghiệm của cuộc chiến tranh vừa qua đã dạy cho chúng ta lòng mong muốn chinh phục những hành động quân sự của chúng ta bằng một công thức thực tiễn và chính xác của những nhiệm vụ chính trị dài hạn mà chúng ta muốn đạt được. Đây là điều đặc biệt quan trọng trong trường hợp có chiến tranh với Liên Xô. Liệu chúng ta có thể mong đợi rằng chúng ta sẽ hoàn thành cuộc chiến tranh này cùng một kết cục chính trị và quân sự như trong trường hợp của cuộc chiến tranh chống Đức và Nhật Bản vừa qua. Vì vậy, khi mọi sự chưa rõ ràng là những mục tiêu của chúng ta không nằm trong một chiến thắng quân sự, mà vì thế công chúng Mỹ sẽ khó nhận thức được rằng trên thực tế sẽ là một kết cục xung đột như mong muốn. Công chúng có thể trông chờ vào một kết cục quân sự to lớn hơn rất nhiều so với mức cần thiết, thậm chí là quá cả sự mong đợi trong quan điểm giành được thực sự những mục tiêu của chúng ta. Nếu mọi người đều sẽ hiểu rằng những mục tiêu của chúng ta là sự đầu hàng vô điều kiện, chiếm đóng hoàn toàn và có một chính phủ quân sự theo mô hình của Đức và Nhật Bản, thì họ, đương nhiên, sẽ cảm nhận rằng, ngoại trừ những thành tựu này, mọi cái khác hoàn toàn không phải là một chiến thắng thực sự và họ sẽ không thể đánh giá sự điều chỉnh mang tính xây dựng và thực sự cơ bản.

Cuối cùng, chúng ta phải công nhận rằng những mục tiêu của Xô Viết tự thân là thực sự vĩnh cửu. Những bước chuyển từ chiến tranh sang hòa bình đã thực sự không ảnh hưởng tới họ. Ví dụ, những mục tiêu về lãnh thổ của Xô Viết đối với Đông Âu đã từng là hiển nhiên trong diễn biến của cuộc chiến tranh đang rất giống với chương trình mà Chính phủ Xô Viết đã nỗ lực hiện thực hóa bằng các phương tiện phi quân sự trong những năm 1939 - 1940, và về bản chất, giống như một số công thức chính trị và chiến lược có trong đường lối Nga hoàng trước chiến tranh thế giới I. Để chống lại một đường lối đã từng được tiến hành một cách kiên trì như vậy trong cả thời chiến và thời bình, chúng ta phải chống lại từ những nhiệm vụ kém vững chắc và dài hạn hơn. Tóm lại, điều này được tạo nên bởi chính bản chất những quan hệ giữa Liên Xô với thế giới bên ngoài - những quan hệ mang tính xung đột và đối kháng thường xuyên nằm trong khuôn khổ của một nền hòa bình hình thức cũng như trong khuôn khổ hợp pháp của chiến tranh.

Mặt khác, rõ ràng là nền dân chủ, và đôi khi là quốc gia cực quyền, không thể đạt được sự đồng nhất hoàn toàn những mục tiêu của mình trong thời bình và trong thời chiến. Thái độ ghê tởm của nó đối với chiến tranh như đối với một phương pháp của đường lối đối ngoại mạnh tới mức nó tất yếu sẽ thay đổi những mục tiêu của mình trong thời bình với hy vọng rằng họ có thể sẽ đạt được những mục tiêu đó mà không đụng tới vũ khí. Khi niềm tin này và sự kiên trì này bị đặt dấu chấm hết thì chiến tranh bắt đầu, do sự can thiệp hay vì những nguyên nhân khác. Công luận dân chủ bị kích động hay đòi hỏi hoặc là một sự diễn giải về những mục tiêu tiếp theo, thường mang tính chất trừng phạt - tính chất mà công luận đã không ủng hộ trong thời bình, hoặc phải hiện thực hóa ngay lập tức những mục tiêu mà trong những điều kiện khác công luận chỉ yêu cầu đạt tới một cách từ tốn trong thời hạn cả chục năm. Vì vậy, sẽ là không hiện thực khi cho rằng Chính phủ Hoa Kỳ vẫn có thể bình tĩnh tiếp tục hoạt động trong thời chiến trên cơ sở của chính những mục tiêu đã lựa chọn đó, hoặc vẫn theo tiến trình hiện thực hóa những mục tiêu trong thời bình.

Đồng thời cần phải công nhận rằng càng ít có sự đổ vỡ giữa những mục tiêu của thời bình và thời chiến, thì khả năng những thành công của hành động quân sự cũng sẽ là thành công về chính trị càng lớn. Nếu những mục tiêu, theo quan điểm của những lợi ích quốc gia, thực sự lành mạnh thì chúng sẽ là một diễn giải có ý thức, là thành tựu của cả trong chiến tranh cũng như trong thời bình. Những mục tiêu được sinh ra do cao trào cảm xúc trong thời chiến không đủ khả năng lấn át công thức bền vững của những lợi ích quốc gia lâu dài. Vì nguyên nhân này, mọi hành động được Chính phủ vạch ra hiện nay, trước ngưỡng cửa của bất kỳ hành động quân sự nào, đều phải xác định rõ những mục tiêu hòa bình hiện tại và những mục tiêu giả tưởng của chúng ta trong thời chiến đối với Nga, đồng thời cần giảm bớt sự xung đột giữa chúng tới mức thấp nhất.
____________________________________
1. Forrestol gửi Sowers, ngày 10 tháng 7 năm 1948. Trích trong Chỉ lệnh NSC 20 “Đánh giá mức độ và tính chất chuẩn bị quân sự đáp ứng tình hình trên thế giới” ngày 12 tháng 7 năm 1948. Quan hệ quốc tế của Hoa Kỳ, 1948, 1 (Phần 2), tr. 589 - 592.
2. 1780 - 1831, nhà lý luận quân sự Đức. ND
chuongxedap:

III. Những mục tiêu chủ yếu

Chúng ta thực sự chỉ có hai mục tiêu chủ yếu:

a) Làm giảm sức mạnh và mức độ ảnh hưởng của Matxcơva đến mức chúng không thể đe dọa đối với hòa bình và ổn định của cộng đồng quốc tế;

b) Tiến hành những thay đổi cơ bản trong lý luận và thực hành những quan hệ quốc tế của Chính phủ Nga hiện nay.

Nếu đạt được cả hai mục tiêu này, thì vấn đề mà đất nước ta phải giải quyết trong quan hệ của mình đối với Nga sẽ giảm xuống đến mức được coi là bình thường.

Trước khi đề cập tới những khả năng thực hiện hài hòa các mục tiêu này trong thời bình và thời chiến, cần nghiên cứu chúng một cách chi tiết nhất.

1. Làm suy giảm sức mạnh và mức độ ảnh hưởng của Nga về mặt địa lý

Hiện có hai phạm vi mà trong đó sức mạnh và mức độ ảnh hưởng của Matxcơva đang mở rộng ra ngoài biên giới của Liên Xô tới mức đe dọa hòa bình và ổn định của cộng đồng quốc tế.

Phạm vi thứ nhất có thể được xác định như một vùng vệ tinh - đó là vùng Kremli đang có ảnh hưởng chính trị nhất định. Cần nhận thấy rằng đây là vùng liền kề với Liên Xô về mặt địa lý. Tại vùng này sự hiện diện (hoặc sự kề cận) của lực lượng vũ trang Xô Viết đã thành yếu tố quyết định trong việt thiết lập và duy trì bá quyền Xô Viết.

Phạm vi thứ hai bao gồm những mối quan hệ giữa trung tâm quyền lực do Liên Xô kiểm soát, một mặt với những nhóm hoặc những đảng phái ở những nước khác nằm ngoài vùng vệ tinh và đang coi Nga như là cội nguồn động viên về chính trị, mặt khác bày tỏ lòng trung thành với Nga.

Tại cả hai phạm vi, cần phải đặt dấu chấm hết cho việc bành trướng sức mạnh của Nga ra ngoài khuôn khổ hợp pháp của nó, nếu việc giành được mục tiêu đầu tiên trong số những mục tiêu đề ra được tiến hành có hiệu quả. Cần tạo ra cho những nước nằm trong vùng vệ tinh khả năng giải phóng một cách cơ bản khỏi sự thống trị của Nga và tránh được sự động viên tư tưởng của Nga. Phải phá hủy tận gốc rễ huyền thoại buộc hàng triệu người ở những nước cách xa biên giới Xô Viết trông chờ vào Matxcơva như cội nguồn sáng lạn của những hy vọng vào những điều tốt đẹp của nhân loại, còn những sản phẩm của nó phải được tiêu hủy.

Cần nhận thấy rằng trong cả hai trường hợp, có thể đạt được những mục tiêu mà không gây nên vấn đề làm tổn hại uy tín của quốc gia Xô Viết như nó vốn có.

Trong phạm vi thứ hai, có thể đạt tới việc đẩy ra xa hẳn sức mạnh của Nga mà không nhất thiết phải làm tổn hại những lợi ích sống còn nhất của quốc gia Nga; hoặc quyền lực của Matxcơva trong phạm vi này được phá bỏ theo những kênh bí mật mà chính Matxcơva phủ nhận sự tồn tại của chúng. Vì vậy, việc chấm dứt một cơ cấu quyền lực mà trước đây được biết tới như Quốc tế III, không đòi hỏi bất cứ một hình thức hạ mình nào của Chính phủ Matxcơva cũng như một hình thức nhân nhượng nào từ phía quốc gia Nga.

Tại vùng vệ tinh, đương nhiên Matxcơva cũng sẽ phủ nhận sự thống trị hình thức của Xô Viết và cố gắng che dấu cơ chế của nó. Những vụ đụng độ với Tito cho thấy việc tiêu diệt sự kiểm soát của Matxcơva không nhất thiết là một sự kiện gây ảnh hưởng tới những quốc gia liên quan. Trong trường hợp này, sự kiện đó được cần coi như việc riêng giữa hai bên; và đặc biệt nhấn mạnh rằng không bao giờ được đụng tới vị thế của các quốc gia. Nếu có thể xảy ra ở đâu đó trong vùng vệ tinh thì nhất thiết không được làm tổn hại tới phẩm giá hình thức của quốc gia Xô Viết.

Tuy nhiên, chúng ta còn nhận thấy một vấn đề khó khăn hơn trong quy mô thực tế của biên giới Liên Xô sau năm 1939. Dù thế nào cũng không nên nói rằng quy mô đó đang đe dọa nền hòa bình và ổn định trên thế giới; còn trong những trường hợp nhất định, rõ ràng, theo quan điểm của những mục tiêu của chúng ta, nên coi là những mục tiêu cần được công nhận để duy trì hòa bình. Trong những trường hợp khác, đặc biệt là trong trường hợp của các nước vùng Baltik, vấn đề trở nên khó khăn hơn. Chúng tôi không thể thực sự bày tỏ thái độ bàng quan đối với số phận tương lai của các dân tộc vùng Baltik. Điều này được thể hiện trong chính sách công nhận các nước này hiện nay của chúng ta. Liệu chúng ta có thể dự đoán rằng mối đe dọa đối với hòa bình và ổn định quốc tế là thực sự đã giảm xuống, khi châu Âu còn phải đối diện với sự thật rằng Matxcơva có thể xóa bỏ ba nước nhỏ bé này, cho dù ba nước này không hề có lỗi nào trong một cuộc khiêu khích thực sự và đã tỏ rõ năng lực điều hành rất tiến bộ những công việc nội bộ của mình mà không hề đe dọa tới lợi ích của các nước láng giềng. Do đó, sẽ là lo gic khi coi việc hỗ trợ những nước này trở lại tình trạng tốt đẹp của tự do và độc lập là một phần trong những mục tiêu của Mỹ.

Tuy nhiên, rõ ràng là nền độc lập hoàn toàn của những nước này đòi hỏi những nhân nhượng về mặt lãnh thổ thực tế từ phía Chính phủ Xô Viết. Mà điều này lại động chạm trực tiếp tới phẩm giá và những quyền lợi sống còn của quốc gia Xô Viết. Thật là vô ích nếu cho là điều này có thể đoạt được bằng những phương tiện phi quân sự. Vì vậy, nếu chúng ta cho rằng những mục tiêu nói trên là thiết thực trong cả thời bình và thời chiến, thì lo gíc của nó sẽ là liệu chúng ta có thể buộc Matxcơva cho phép các công dân bị cưỡng bức di cư trở về các nước vùng Baltik và thiết lập ở các nước này chế độ tự trị, đáp ứng những nhu cầu văn hóa nói chung và những phong tục dân tộc của những dân tộc này. Trong chiến tranh chúng ta đã có thể dấn bước, nếu điều đó là cần thiết. Nhưng câu trả lời cho vấn đề này lại tùy thuộc vào đặc điểm của chế độ Nga đã từng được hình thành ở vùng này từ sau chiến tranh; còn với chúng ta, cố gắng giải quyết điều này trước đây là không cần thiết.

Do đó, khi nói rằng chúng ta cần làm suy giảm sức mạnh và mức độ ảnh hưởng của Kremli tới mức chúng không còn là mối đe dọa đối với hòa bình và ổn định của cộng đồng quốc tế, chúng ta có quyền dự đoán rằng chúng ta có thể theo đuổi mục tiêu này không chỉ khi có chiến tranh, mà ngay cả trong thời bình, bằng phương tiện hòa bình, và nói chung, không nhất thiết phải đụng tới những vấn đề vị thế của Chính phủ Xô Viết - nếu không, tất yếu sẽ dẫn tới một cuộc chiến tranh.
chuongxedap:

2. Những thay đổi trong lý luận và thực hành quan hệ quốc tế của Matxcơva

Những khó khăn của chúng ta trong quan hệ đối với Chính phủ Xô Viết hiện nay chủ yếu là những thủ lĩnh của nó được khích lệ bởi những công thức lý luận và thực hành quan hệ quốc tế không chỉ mâu thuẫn gay gắt với chúng ta, mà còn không thể dung hòa với bất cứ thay đổi hòa bình và cùng có lợi nào trong quan hệ giữa các chính phủ này và những thành viên khác trong cộng đồng quốc tế.

Những điểm nổi bật trong công thức này là:

a) Cùng tồn tại hòa bình và hợp tác của các chính quyền độc lập có chủ quyền, bình đẳng như nhau là ảo tưởng và không thể.

b) Xung đột là nền tảng của sinh hoạt quốc tế, tương tư như trường hợp giữa Liên Xô với các nước tư bản, một nước sẽ không công nhận tính ưu việt của nước khác.

c) Những chế độ không công nhận vị thế và sự ưu việt về tư tưởng của Matxcơva là những chế độ vô luân và có hại đối với tiến bộ của nhân loại; và nghĩa vụ của những người có tư duy lành mạnh ở tất cả các nước là vươn tới lật đổ hoặc làm suy yếu những chế độ đó bằng mọi phương thức tỏ ra thích hợp về mặt sách lược.

d) Trong tương lai lâu dài, hợp tác cùng nhau sẽ không mang lại bất kỳ lợi ích nào cho thế giới cộng sản và phi cộng sản bởi những lợi ích đó cơ bản không thể dung hòa và mâu thuẫn nhau.

e) Mối giao tiếp tự phát (spontaneus) giữa những con người riêng lẻ trong thế giới do những người cộng sản điều hành với những người ở ngoài thế giới đó là có hại và không tạo điều kiện cho tiến bộ của nhân loại.

Rõ ràng là việc chấm dứt sự thống trị của công thức này trong lý luận và thực hành quan hệ quốc tế của Xô Viết (hoặc của Nga) là chưa đủ. Cần phải thay thế chúng bằng những công thức nào đó đối lập.

Những công thức đối lập đó có thể là:

a) Những nước bình đẳng và có chủ quyền có thể tồn tại hòa bình, vai kề vai hợp tác cùng nhau, không một nước nào có bất kỳ một âm mưu hay dự định thống trị nước khác.

b) Xung đột nói chung không nhất thiết là nền tảng của sinh hoạt quốc tế và mọi người có thể có những mục tiêu chung, không phân biệt hệ tư tưởng và không bị phụ thuộc bởi một vị thế duy nhất.

c) Mọi người ở các nước có quyền hợp pháp về những mục tiêu dân tộc khác với hệ tư tưởng cộng sản; và nghĩa vụ của nhân loại có tư duy lành mạnh là thể hiện sự khoan hòa đối với những tư tưởng khác, chấp hành một cách tế nhị việc không can thiệp vào những công việc nội bộ của người khác trên cơ sở tương giao và chỉ sử dụng những phương pháp tốt đẹp, đàng hoàng trong các mối quan hệ quốc tế.

d) Hợp tác quốc tế là có thể và cần phải mang lại lợi ích cho quyền lợi của cả hai bên cho dù có sự khác biệt về hệ tư tưởng của hai bên.

e) Giao tiếp của mọi người trên thế giới là điều ước mông và cần được cổ vũ như một quá trình kích thích tiến bộ của nhân loại.

Vấn đề nảy sinh ở đây là việc Matxcơva tiếp nhận những công thức như vậy có trở thành mục tiêu để chúng ta thực sự cố gắng và trong chờ mà không cần đi đến chiến tranh hay lật đổ Chính phủ Xô Viết. Chúng ta cần công nhận sự thật rằng Chính phủ Xô Viết, như chúng ta biết về nó, đang là và sẽ tiếp tục là mối đe dọa thường trực đối với sự bình yên của dân tộc chúng ta và của toàn thế giới.

Hoàn toàn rõ ràng là chính những nhà lãnh đạo hiện nay của Liên Xô sẽ không bao giờ coi những công thức được liệt kê trên đây là lành mạnh và cần thiết. Cũng hoàn toàn rõ ràng như vậy, để những công thức này trở thành thống trị trong phong trào cộng sản ở Nga, thì cần tính tới những hoàn cảnh hiện nay, cuộc cách mạng tri thức trong lòng phong trào này cũng đồng nghĩa với sự thay đổi đặc tính chính trị của nó, đồng nghĩa với sự từ bỏ mục tiêu cơ bản của nó - tồn tại như một sức mạnh độc lập và tối quan trọng trong dòng chảy của những tư tưởng trên thế giới nói chung. Những công thức này đã có thể trở thành thống trị trong phong trào cộng sản ở Nga chỉ khi có một quá trình lâu dài của những biến động và tan vỡ. Phong trào này sẽ mang một ý nghĩa hoàn toàn mới trên thế giới.
chuongxedap:

Do đó, có thể kết luận (những nhà lý thuyết của Matxcơva luôn nhanh chóng tiếp nhận cách giải thích này) rằng chúng ta đang cố gắng tiếp thu những công thức này cũng đồng nghĩa với việc mục tiêu của chúng ta là lật đổ chính quyền Xô Viết. Khi loại bỏ quan điểm này, có thể khẳng định rằng nó, về phần mình, là mục tiêu không thể đạt được bằng những phương tiện phi quân sự và bằng cách đó chúng ta công nhận rằng mục tiêu của chúng ta đối với Liên Xô là một cuộc chiến tranh cuối cùng, dùng bạo lực lật đổ chính quyền Xô Viết.

Việc theo đuổi một diễn biến như vậy của tư duy là sai lầm nguy hiểm.

Trước hết, không có những giới hạn tạm thời cho việc giành những mục tiêu của chúng ta trong điều kiện hòa bình. Ở đây chúng ta đang vấp phải sự thiếu hụt về tính chu kỳ được xác lập của chiến tranh và hòa bình. Điều này không cho phép chúng ta kết luận rằng chúng ta phải đạt được những mục tiêu hòa bình của mình vào một thời điểm nhất định. Đừng bao giờ xem xét những mục tiêu của chính sách dân tộc thời bình trong khuôn khổ chiến lược. Bởi chúng là những mục tiêu cơ bản và quý giá, không thể giành được chúng một cách hoàn toàn và vào đúng một thời hạn chính xác, chúng giống như những nhiệm vụ quân sự cụ thể trong chiến tranh vậy. Cần xem xét những mục tiêu của chính sách dân tộc thời bình như phương hướng hành động, chứ không như những mục tiêu vật lý.

Hai là, chúng ta hoàn toàn đúng và không nên có cảm giác mình sai lầm khi cố gắng phá hoại những công thức không thể dung hòa với hòa bình và ổn định trên thế giới, khi cố gắng thay thế công thức hợp tác quốc tế của họ. Chúng ta không nhất thiết phải can thiệp những thay đổi bên trong, bởi việc tiếp thu những công thức như vậy ở các nước khác có thể dẫn tới những thay đổi đó, và chúng ta cũng không cần phải chịu trách nhiệm về những thay đổi đó. Nếu những nhà lãnh đạo Xô Viết quyết định rằng ưu thế phát triển của một công thức tiến bộ hơn của quan hệ quốc tế không thể dung hòa với sự tồn tại quyền lực nội bộ của họ ở Nga, thì đó là trách nhiệm của họ chứ không phải của chúng ta. Đó là sự nghiệp của chính lương tri họ và lương tri của những người Xô Viết. Chúng ta không chỉ có quyền về mặt đạo đức mà còn có cả trách nhiệm về mặt đạo đức quan tâm tới việc tiếp nhận thường xuyên những công thức xứng đáng và tin cậy trong sinh hoạt quốc tế. Trong vấn đề này, chúng ta có quyền không phải e ngại đối với những phương tiện cải tạo bên trong.

Chúng ta không bao giờ biết rằng việc tiến hành thành công những mục tiêu đã được chúng ta nghiên cứu sẽ dẫn tới việc chính quyền Xô Viết bị tan rã, bởi trong vấn đề này chúng ta không thể biết rõ yếu tố thời gian. Hoàn toàn có thể là dưới áp lực của thời gian và hoàn cảnh một số công thức cơ bản của phong trào cộng sản ở Nga sẽ dần dần bị thay đổi. Điều này cũng đã từng diễn ra ở đất nước chúng ta cùng với một loạt những công thức cơ bản của cách mạng Mỹ.

Do đó, chúng ta có quyền giả thiết và tuyên bố công khai rằng mục tiêu của chúng ta là cung cấp cho nhân dân và Chính phủ Nga một công thức quan hệ quốc tế tiến bộ hơn cùng với sự hỗ trợ của những phương tiện trong khả năng của chúng ta, trong đó chúng ta, như một chính phủ, sẽ giữ một vị trí nào đối với tình hình nội bộ ở Nga.

Trong trường có chiến tranh, rõ ràng không nảy sinh những vấn đề như vậy. Nếu giữa đất nước chúng ta và Liên Xô xuất hiện tình trạng chiến tranh, Chính phủ chúng ta được tùy ý thực hiện những mục tiêu cơ bản của mình bằng mọi phương tiện theo cách xem xét của chúng ta và trong mọi điều kiện - những điều kiện mà Chính phủ chúng ta có thể trao cho chính quyền Nga hay những chính quyền Nga trong trường hợp thực hiện thành công các chiến dịch quân sự. Những điều kiện đó sẽ có thể bao gồm cả việc lật đổ chính quyền Xô Viết - đây chỉ là vấn đề mang tính hợp lý (lợi ích) và sẽ được đề cập ở dưới đây.

Trong hai mục tiêu cơ bản, mục tiêu thứ hai này chủ yếu nhằm để thực hiện trong thời bình cũng như trong thời chiến. Giống như mục tiêu thứ nhất, mục tiêu này có thể được tiếp nhận một cách thích hợp làm cơ sở để xây dựng chính sách của chúng ta trong thời bình cũng như trong thời chiến.

Khi đề cập tới sự diễn giải những mục tiêu cơ bản này trong thời bình cũng như trong thời chiến một cách thích hợp, chúng ta sẽ gặp phải vấn đề mang tính thuật ngữ. Nếu chúng ta nói về những nét cụ thể định hướng chính sách của chúng ta trong thời bình hoặc trong thời chiến như về “những mục tiêu”, thì chúng ta có thể rơi vào sự nhầm lẫn về mặt ngữ nghĩa. Vì vậy, thay vì làm rõ, chúng ta sẽ làm một phân biệt võ đoán. Chúng ta sẽ nói tới những mục tiêu chỉ với ý nghĩa của những mục tiêu cơ bản nói trên là chung cho cả chiến tranh, cả hòa bình. Khi chúng ta viện dẫn những mục tiêu có tính định hướng của chúng ta được áp dụng cụ thể đối với chính sách hòa bình hay chiến tranh của chúng ta một cách thích hợp, thì chúng ta sẽ nói không phải về “những mục tiêu” mà về “những dự định”.

Những dự định của chính sách quốc gia Mỹ đối với Nga trong thời bình khi đó sẽ thế nào?

Chúng sẽ được rút ra một cách lo gic từ hai mục tiêu cơ bản nói trên.
chuongxedap:

1. Làm suy giảm sức mạnh và mức độ ảnh hưởng của Nga

Chúng ta đã nhận thấy rằng vấn đề này được chia ra thành vấn đề của vùng vệ tinh và vấn đề của hoạt động cộng sản và tuyên truyền Xô Viết tại những nước xa hơn.

Điều liên quan tới vùng vệ tinh, thì dự định chính sách của Mỹ trong thời bình là tạo ra sự căng thẳng tới mức tối đa có thể trong cơ cấu quan hệ, mà nhờ đó sự thống trị Xô Viết đang được duy trì tại khu vực này, rồi dần dần, cùng với sự hỗ trợ của các lực lượng hợp pháp, tự nhiên ở châu Âu, làm cho người Nga mất đi ví trí hàng đầu của họ và tạo cho những chính phủ thích hợp khả năng giành được độc lập trong hành động. Nếu có nhiều phương pháp mà nhờ đó mục tiêu này có thể đạt được và đạt được. Bước đi kiên quyết nhất trong hương này là việc đề nghị về một chương trình Âu - Nga do Bộ trưởng Ngoại giao Marshall phát biểu tại Havard ngày 5 tháng 6 năm 1947. Khi buộc Nga, hoặc cho phép các nước chư hầu (vệ tinh) được quan hệ hợp tác kinh tế với Tây Âu - điều này tất yếu sẽ củng cố mối quan hệ giữa đông và Tây và làm suy yếu khuynh hướng đặc biệt của các nước này đối với Nga, hoặc đứng ngoài cơ cấu hợp tác này và chấp nhận những tổn thất kinh tế nặng nề, chúng ta đã tạo ra một sự căng thẳng thực sự giữa Matxcơva và các nước chư hầu, và tất nhiên, đã đặt uy tín đặc biệt của Matxcơva tại thủ đô của các nước chư hầu vào một tình thế khó khăn, dễ đổ vỡ. Về thực chất, đó là tất cả những gì giúp để xé toang lớp vỏ bọc mà Matxcơva dùng để che đậy sức mạnh của mình, tất cả những gì buộc người Nga phải phơi bày ra bản chất đê tiện và xấu xa của chính quyền Xô Viết trước chính phủ các nước chư hầu, giúp để làm mất uy tín chính phủ các nước chư hầu trong con mắt của dân chúng ở nước họ, tăng cường sự bất bình của các dân tộc này và tăng cường cho họ thái độ mong muốn hợp tác tự do với các dân tộc khác.

Thái độ không trung thành của Tito, ở một mức độ nào đó rõ ràng đã tạo ra một sự căng thẳng được gọi là vấn đề ERP. Nó cho thấy một cách chính xác rằng sự căng thẳng trong giữa Liên Xô và các nước chư hầu hoàn toàn có thể dẫn đến việc thực sự làm suy yếu và phá vỡ sự thống trị của Nga.

Đương nhiên, dự định của chúng ta - tiếp tục làm tất cả những gì có trong khả năng của mình để thúc đẩy những căng thẳng đó và đồng thời làm những gì có thể để những chính phủ của các nước chư hầu dần dần thoát khỏi sự kiểm soát của Nga và tìm thấy, nếu họ có nguyện vọng, những phương pháp hợp tác có thể chấp nhận được với các chính phủ phương Tây. Có thể đạt được điều đó bằng cách sử dụng khéo léo sức mạnh kinh tế của chúng ta, bằng hoạt động thông tin trực tiếp và gián tiếp, bằng cách tạo ra sự căng thẳng tối đa có thể về sự tồn tại của bức màn sắt, củng cố Tây Âu để nó trở nên hấp dẫn tối đa đối với các dân tộc phương Đông, và cả bằng rất nhiều những phương tiện khác.

Tất nhiên, chúng ta không thể dự tính rằng người Nga sẽ khoanh tay ngồi nhìn và cho phép các chư hầu thoát khỏi sự kiểm soát của mình bằng cách đó. Chúng ta không thể tin tưởng rằng vào một thời điểm nào đó của quá trình này người Nga sẽ không dùng tới một loại hình bạo lực như chiếm đóng quân sự, thậm chí tiến hành một cuộc chiến tranh quy mô để ngăn chặn quá trình này.

Nói chung, chúng ta không mong muốn để họ làm điều đó; và về phía mình, chúng ta phải làm tất cả những gì có thể để duy trì tình trạng đó và làm cho việc giải phóng các nước chư hầu trở thành khả năng bằng những phương pháp không khiêu khích đối với vị thế của Xô Viết. Song, cho dù thận trọng nhất, chúng ta không thể tin chắc rằng họ sẽ tránh sử dụng vũ khí. Chúng ta cần dự đoán rằng chúng ta sẽ có thể tác động tới chính sách của họ hoặc nhận được kết quả có bảo đảm.

Những gì chúng ta đang đưa vào chính sách để có thể dẫn đến kết quả đó, nói chung, không có nghĩa là chúng ta theo đuổi đường lối chiến tranh; và đặc biệt chúng ta phải dự tính trước để làm cho điều đó trở thành hiển nhiên trong bất kể hoàn cảnh nào và tránh mọi sai lầm. Khi tính tới thái độ đối kháng, loại trước đây đã từng là nền tảng đối với mọi quan hệ giữa Chính phủ Xô Viết với những phi cộng sản trong thời đại này, chiến tranh vẫn luôn là khả năng hiện hữu, và không một đường lối nào được Chính phủ của chúng ta lựa chọn lại không thể làm giảm bớt rõ rệt nguy cơ đó. Những gì đưa vào chính sách mà mâu thuẫn với điều nói trên, thì đó chính là công nhận sự thống trị của Xô Viết tại các nước vệ tinh và không có gì đối lập với nó - đều không thể làm suy giảm nguy cơ của một cuộc chiến tranh. Ngược lại, có thể khẳng định một cách khá lo gic rằng nguy cơ lâu dài của một cuộc chiến tranh tất yếu sẽ cao hơn, nếu châu Âu vẫn bị chia rẽ bởi những đường lối như hiện nay, nếu so với việc chính quyền của người Nga bị tiêu diệt bằng con đường hòa bình vào một thời điểm thuận lợi và trong cộng đồng châu Âu sẽ hồi phục được sự cân bằng tự nhiên.

Vì vậy, có thể khẳng định rằng dự định đầu tiên của chúng ta đối với Nga trong thời bình - đó là cổ vũ và tạo điều kiện bằng những phương tiện phi quân sự nhằm làm suy giảm dần sức mạnh và mức độ ảnh hưởng của Nga ở vùng vệ tinh hiện nay và để những nước Đông Âu thích hợp xuất hiện như những nhân tố độc lập trên trường quốc tế.
Tuy nhiên, như chúng ta đã thấy, sự lý giải của chúng ta về vấn đề này sẽ không đầy đủ, nếu chúng ta không chú tâm tới vấn đề của những lãnh thổ hiện đang nằm ngoài biên giới Xô Viết. Liệu chúng ta có muốn đạt tới mục tiêu bằng những phương tiện phi quân sự gây nên những thay đổi nào đó về đường biên giới Liên Xô không? Chúng ta sẽ tìm thấy câu trả lời trong Chương 3 cho vấn đề này.

Bằng mọi phương tiện sẵn có trong tay chúng ta phải tạo điều kiện để phát triển ở Liên Xô những định chế của chế độ liêng bang. Những định chế đó sẽ làm cho sinh hoạt dân tộc của các dân tộc vùng Baltik.

Có thể đặt ra câu hỏi: Tại sao chúng ta lại hạn chế các dân tộc Baltik mục tiêu này? Tại sao chúng ta không đề cập tới những dân tộc thiểu số của Liên Xô? Câu trả lời là các dân tộc Baltik - đó là các dân tộc duy nhất có lãnh thổ truyền thống và dân cư của họ hiện đang hoàn toàn nằm trong thành phần Liên Xô và họ đã từng thể hiện khả năng điều hành thành công các công việc quốc gia. Hơn nữa, như trước đây, chúng ta vẫn chính thức phủ định tính hợp pháp của việc cưỡng bức họ gia nhập vào Liên Xô và vì thế họ vẫn là một thể chế đặc biệt trong quan điểm của chúng ta.

Sau này, chúng ta vấp phải vấn đề suy giảm huyền thoại, nhờ đó mà những kẻ ở Matxcơva đã duy trì được ảnh hưởng mạnh mẽ và quyền lực thực sự chặt chẽ của mình đối với hàng triệu người ở các nước nằm ngoài vùng vệ tinh. trước hết, cần có một vài lời về bản chất của vấn đề này.

Trước cuộc cách mạng năm 1918, chủ nghĩa dân tộc Nga chỉ là của riêng Nga. Ngoại trừ một số trí thức châu Âu ngông cuồng của thế kỷ XIX, từng tin vào niềm tin huyền bí về khả năng của Nga cứu được nền văn minh ra khỏi mọi hủ lậu của nó (Karl Marx không thuộc vào số người này. Theo chính ông bày tỏ, ông không phải là “một trong số những người tin rằng châu Âu già nua có thể hồi sinh bằng máu người Nga”), chủ nghĩa dân tộc Nga không hấp dẫn được những người ngoài biên giới nước Nga. Ngược lại, chủ nghĩa chuyên quyền tương đối mềm mỏng của những nhà cầm quyền Nga ở thế kỷ XIX lại khá nổi tiếng tại các nước phương Tây và người ta đã từng tiếc nuối nó, nhất là khi chế độ Xô Viết ngày càng trở nên độc ác.

Sau cách mạng, các thủ lĩnh Bolsevich đã tuyên truyền một cách khôn khéo và có hệ thống để củng cố trong công luận quốc tế những công thức nhất định, đặc biệt thuận lợi cho việc giành những mục tiêu của họ, bao gồm như: Cách mạng Tháng Mười là cuộc cách mạng nhân dân; chế độ Xô Viết là Chính phủ công nông chân chính đầu tiên; chính quyền Xô Viết gắn bó chặt chẽ với lý tưởng của chủ nghĩa tự do, tự do và thích hợp về mặt kinh tế; rằng nó là giải pháp lựa chọn duy nhất đầy hứa hẹn cho các chế độ dân tộc của các dân tộc. Bằng cách đó, trong nhận thức của nhiều người đã hình thành nên mối liên hệ giữa chủ nghĩa cộng sản Nga với sự bình an chung trong thế giới bên ngoài đang bị tác động bởi trào lưu đô thị hóa và công nghiệp hóa, cùng với phong trào phản đối thực dân.

Vì vậy, học thuyết của Matxcơva, ở một mức độ nhất định, đã trở thành vấn đề nội bộ đối với mỗi dân tộc trên toàn thế giới. Đối mặt với chính quyền Xô Viết, các nhà chính trị phương Tây hiện đang vấp phải một cái gì đó lớn hơn cả vấn đề quan hệ đối ngoại. Ngay tại chính đất nước mình, họ cũng phải đối mặt với kẻ thù bên trong - những kẻ đã hiến dâng đời mình cho sự nghiệp phá hoại và tiệu diệt đến cùng cộng đồng dân tộc của mình.

Xóa bỏ huyền thoại của chủ nghĩa cộng sản quốc tế - đó là một nhiệm vụ có tính hai mặt. Nó đòi hỏi cả hai bên cần thiết lập được một sự tương tác, một mặt là với Kremli, mặt khác là với những trí thức bất mãn (chính xác là trí thức, chứ không phải là “công nhân”, đang nhóm lên ngọn lửa của chủ nghĩa cộng sản ở ngoài Liên Xô). Để đảm đương được vấn đề này, thì việc đặt ra cho mình mục tiêu bịt miệng kẻ tuyên truyền là chưa đủ. Điều quan trọng hơn cả là trang bị cho người nghe khả năng chống lại kiểu tấn công như vậy. Có một nguyên nhân nhất định để mọi người phải lắng nghe bộ máy tuyên truyền của Matxcơva, huyền thoại đó đã thu hút nhiều người ở ngoài xa biên giới Nga. Nếu để những thính giả này không còn lắng nghe Matxcơva nữa, thì họ còn phải nghe cái gì khác đại loại là cái sai lầm, cái cực đoan, cho dù điều đó có thể hơi nguy hiểm. Vì vậy, nhiệm vụ phá hoại huyền thoại mà chủ nghĩa cộng sản quốc tế đang yên ngủ trên đó không chỉ liên quan tới các nhà lãnh đạo Liên Xô. Nó còn liên quan tới cả thế giới ngoài Xô Viết, trước hết là liên quan tới một xã hội cụ thể mà mỗi chúng ta là một phần trong đó. Nếu chúng ta biết cách gieo rắc nỗi kinh hoàng và những quan niệm không đúng mà nhờ chúng các học thuyết này đã phát triển - tức là, nếu chúng ta biết cách tiêu diệt nguồn gốc của sự độc ác đã từng đẩy mọi người đến với lý tương phi lý và ảo tưởng đó - thì chúng ta sẽ thành công trong việc xóa bỏ ảnh hưởng tư tưởng của Matxcơva ở nước ngoài.

Mặt khác, chúng ta phải công nhận rằng chỉ có một bộ phận của chủ nghĩa cộng sản ở ngoài nước Nga là kết quả của sự tác động từ bên ngoài và chịu sự điều chỉnh thích ứng. Bộ phận khác là cái gì đó tựa như sự đột biến tự nhiên. Nó xuất phát từ một phong trào, về tinh thần, giống như của đội quân thứ năm, chiếm một tỷ lệ dân cư nhất định không lớn trong mỗi xã hội và có thái độ tiêu cực đối với xã hội, sẵn sàng đi theo bất kỳ sức mạnh bên ngoài nào đối lập với xã hội. Phần tử này sẽ luôn luôn hiện diện trong bất kỳ xã hội nào và là mảnh đất thuận lợi cho công việc của những kẻ ngoại bang bất lương. Cách bảo vệ duy nhất trước tác động nguy hại của nó là - những chế độ vững mạnh không nên khai thác mặt bất hạnh này trong bản chất của con người.
chuongxedap:

Thật may là Kremli đã làm nhiều hơn những gì chính chúng ta có thể để tung hô huyền thoại này. Kẻ chống đối (insident) Nam Tư, có thể, là trường hợp điển hình nhất của loại này, còn trong lịch sử của Quốc tế cộng sản có rất nhiều trường hợp mà những người hoặc nhóm người ngoài nước Nga gặp phải khó khăn khi họ định trở thành những kẻ theo đuổi học thuyết của Matxcơva. những thủ lĩnh Kremli đã tỏ ra vô cùng bất cẩn, vô cùng ác độc, vô cùng bạo ngược và vô cùng trắng trợn trong nguyên tắc mà họ đặt ra cho những người đi theo mình - điều đó đã làm cho chỉ có một ít người có thể công nhận uy tín của họ.

Hệ thống Lênin-Xtalin chủ yếu dựa trên quyền lực - thứ quyền lực mà một thiểu số những kẻ âm mưu có thể giành được, cho dù chỉ tạm thời, đối với đại đa số vô tổ chức và thụ động. Vì nguyên nhân này, các thủ lĩnh Kremli trong quá khứ hầu như không thể yên tâm về việc phong trào của họ vẫn chỉ gồm những kẻ theo đuôi cũ. Mục tiêu của họ đã không làm cho chủ nghĩa cộng sản trở thành một phong trào của quần chúng, mà chỉ thông qua một nhóm nhỏ những kẻ theo đuôi có tính kỷ luật hoàn hảo.

Trong một thời gian dài, điều đó đã được làm khá tốt. Họ đã dễ dàng tuyển mộ được những người mới; còn đảng đã duy trì được một quá trình bền vững của sự lựa chọn tự nhiên, chi để lại trong đội ngũ của nó những kẻ trung thành một cách cuồng tín nhất.

Giờ đây, trường hợp Nam Tư đã để lại một dấu hỏi lớn về việc hệ thống này liệu sẽ còn vận hành tốt trong tương lai. Trước đó, cùng với tà thuyết người ta đã dễ dàng thắng lợi bằng những cuộc thanh trừng của cảnh sát trong phạm vi của chính quyền Xô Viết hoặc là con đường chắc chắn để đoạn tuyệt (rút phép) hay khủng bố cá nhân ở ngoài phạm vi đó. Tito từng chỉ ra rằng trong trường hợp đối với những thủ lĩnh các nước vệ tinh những phương pháp đó hoàn toàn chưa thật hiệu quả. Sự đoạn tuyệt của các thủ lĩnh cộng sản không chịu lệ thuộc vào quyền lực Xô Viết và có lãnh thổ, cảnh sát, quân đội và những trung thành riêng của mình có thể làm chia rẽ phong trào cộng sản. Điều này, không có gì khác, chính là một đòn mạnh nhất giáng vào huyền thoại về quyền lực và quyền năng tối thượng của Xtalin.

Tất nhiên, về phía chúng ta, cần tập trung mọi nỗ lực tạo ra những điều kiện thuận lợi để lợi dụng những sai lầm của Xô Viết và những vết nứt đang xuất hiện, cũng như tạo điều kiện làm suy yếu cơ cấu tác động tinh thần của chính quyền Kremli lên những người đang nằm ngoài tầm với của cảnh sát Xô Viết.

Vì vậy, chúng ta có thể nói rằng dự định thứ hai của chúng ta đối với Nga trong thời bình - đó là với sự trợ giúp của hoạt động thông tin và bất kỳ phương tiện nào sẵn có trong tay chúng ta để phá bỏ huyền thoại đang kiềm chế những người ở xa ảnh hưởng quân sự của Nga, ở trong tình trạng bị Matxcơva chi phối và buộc thế giới nói chung nhìn thấy và hiểu rõ bản chất của Liên Xô, có một thái độ lo gic và thực tế đối với chúng.
chuongxedap:

2. Thay đổi những công thức quan hệ quốc tế của Nga

Bây giờ chúng ta chuyển qua giải thích mục tiêu quan trọng thứ hai của chúng ta trong điều kiện chính sách thời bình - tiến hành thay đổi những công thức quan hệ quốc tế đang thịnh hành trong các nhóm cầm quyền ở Matxcơva.

Như chúng ta đã thấy, chúng ta không thể làm thay đổi tâm lý chính trị cơ bản của những người hiện đang nắm chính quyền ở Liên Xô. Tính cách không thân thiện trong quan điểm của họ đối với thế giới bên ngoài, sự phủ định của họ đối với khả năng hợp tác hòa bình, niềm tin của họ vào tính tất yếu của một thế giới này phải xóa bỏ hoàn toàn một thế giới khác - tất thảy vẫn được giữ nguyên chỉ vì một nguyên nhân đơn giản là các thủ lĩnh Xô Viết khẳng định rằng hệ thống của họ không thể so sánh với nền văn minh phương Tây và vì thế sẽ không thể yên tâm cho tới khi nào nền văn minh phương Tây hùng mạnh và thịnh vượng đó chưa thực sự bị quét hết, ảnh hưởng của nó chưa xóa bỏ. Đấy là chưa nói tới việc những con người này đặc biệt trung thành với học thuyết về xung đột tất yếu giữa hai thế giới - vì học thuyết này, họ sẵn sàng chấp nhận án tử hình cũng như những đau khổ nặng nề nhất của hàng triệu người khác.

Mặt khác, các thủ lĩnh Xô Viết, nếu không chấp nhận những luận chứng, thì cũng biết cách chấp nhận tình huống. Vì vậy, nếu tạo ra tình huống - khi việc nhấn mạnh vào các yếu tố của xung đột trong cao các mối quan hệ của họ với thế giới bên ngoài không mang lại cho quyền lực của mình một lợi ích nào cả thì việc tuyên truyền của họ trong chính dân chúng nước họ cũng có thể thay đổi. Điều này được thể hiện rất rõ trong cuộc chiến tranh trước đây, khi khối đồng minh quân sự của họ với các cường quốc phương Tây chỉ có hiệu quả ngoại tiếp. Trong trường hợp đó, sự thay đổi trong chính sách của họ có một khoảng thời gian tương đối ngắn; hoặc cùng với sự hoàn tất những hoạt động quân sự, họ đã nhìn thấy khả năng đạt được những mục tiêu quan trọng của mình mà không phụ thuộc vào thái độ và quan điểm của phương Tây. Điều này còn có nghĩa là tình huống buộc họ phải thay đổi chính sách hoàn toàn không xảy ra.

Vì vậy, nếu tình huống tương tự sẽ được tạo lập trong tương lai và các thủ lĩnh Xô Viết sẽ buộc phải công nhận tính hiện thực của chúng, và nếu những tình huống đó sẽ được duy trì một thời gian dài, tức là cả một giai đoạn bao trùm phần lớn quá trình hữu cơ của sự phát triển và thay đổi trong đời sống chính trị Xô Viết, thì chúng có thể gây nên hiệu quả thay đổi thường xuyên đối với quan điểm và nền nếp của chính quyền Xô Viết. Thậm chí trong một thời gian tương đối ngắn và chủ yếu bằng lời nói, khả năng hợp tác giữa các đồng minh chủ yếu trong quá trình của cuộc chiến tranh trước đây đã để lại một dấu ấn sâu đậm trong nhận thức của công luận Nga và, chắc chắn, đã tạo nên những khó khăn thực sự đối với chế độ trong âm mưu sau khi kết thúc chiến tranh sẽ trở lại chính sách thù địch và lật đổ thế giới phương Tây. Dù sao, tất cả những điều này đã diễn ra vào giai đoạn khi tuyệt đối không có một thay đổi nào đáng kể trong ban lãnh đạo Xô Viết và không có một sự phát triển tự nhiên nào trong đời sống chính trị nội bộ của Liên Xô. Nếu như Chính phủ Xô Viết đã buộc phải thực hiện chính sách thận trọng và kiềm chế đối với phương Tây lâu dài tới mức những thủ lĩnh hiện nay được thay thế bằng những người khác, và nếu như đã xảy ra một sự phát triển tự nhiên nào đó trong đời sống chính trị Xô Viết, thì rút cuộc đã có thể đạt được những thay đổi thực sự trong quan điểm và hành vi của Xô Viết.

Trên cơ sở đó cho thấy, nếu sắp tới chúng ta không đủ sức làm thay đổi tâm lý chính trị cơ bản của các nhà lãnh đạo Xô Viết, thì chúng ta có thể tạo ra những tình huống đủ lâu dài để thực hiện chúng, có thể buộc các nhà lãnh đạo Xô Viết phải mềm hóa thái độ sai trái và nguy hiểm của mình đối với phương Tây và phải chấp nhận một số mức độ thận trọng và kiềm chế trong các mối quan hệ của họ đối với các nước phương Tây. Trong trường đó, chúng ta thực sự có thể nói rằng chúng ta đã bắt đầu đạt được những thành công trong việc thay đổi từng bước các công thức nguy hiểm hiện nay của những người Xô Viết.

Trong trường hợp chính quyền Xô Viết bị suy yếu, cũng như trong trường hợp chúng ta có chương trình nào đó lâu dài nhằm chống lại những âm mưu của Xô Viết phá hoại nền văn minh phương Tây, chúng ta cần phải công nhận rằng các thủ lĩnh Xô Viết sẽ sẵn sàng dùng bạo lực để ngăn chặn điều đó. Chúng tôi nhấn mạnh: một sự liều lĩnh như vậy là hoàn toàn có thể có trong bất kỳ một chính sách lành mạnh nào đối với Liên Xô. Nó nằm ngay trong bản chất của Chính phủ Xô Viết hiện nay; và cho dù chúng ta có làm gì thì điều đó vẫn không được thay đổi. Đây là vấn đề không hề mới đối với các quan hệ quốc tế của Mỹ. Trong cuốn “Những ghi chép của một người tán thành chế độ liên bang”, Alekxandr Hamilton tuyên bố: “Đừng quên rằng hòa bình và chiến tranh không phải bao giờ cũng để cho chúng ta lựa chọn; và cho dù chúng ta đã kiềm chế và không hiếu thắng, chúng ta vẫn không thể thiên về kiềm chế và tin tưởng khoan hòa sự hiếu thắng của những kẻ khác”.

Vì vậy, khi đặt ra mục tiêu làm thay đổi những công thức đang chỉ đạo Chính phủ Xô Viết về những vấn đề quốc tế, chúng ta lại một lần nữa cần phải thấy rằng câu trả lời cho câu hỏi, liệu có thể đạt được mục tiêu này bằng những phương tiện hòa bình, không chỉ tùy thuộc riêng chúng ta. Tuy nhiên, điều đó không thể cản trở chúng ta trong những ý định của mình.

Vì vậy, chúng ta cần phải nói rằng ý định thứ ba của chúng ta đối với Nga trong thời bình là tạo dựng tình huống buộc Chính phủ Xô Viết công nhận tính chất không mong muốn trên thực tế của những hành động trên cơ sở những công thức hiện nay của nó và sự cần thiết phải hành động, chí ít là về đối ngoại, sao cho công thức mâu thuẫn với những điều nói trên, là những điều hiển nhiên.

Tất nhiên, điều này trước hết là vấn đề duy trì sự yếu kém chính trị, quân sự và tâm lý của Liên Xô so với các lực lượng quốc tế nằm ngoài ranh giới kiểm soát của nó và trong những nước phi cộng sản.
chuongxedap:

3. Những ý định cụ thể

Mọi dự định nêu trên chỉ mang tính chất chung.

Trước hết, dự định đầu tiên của chúng ta trong thời bình không phải là soạn thảo ra kịnh bản cho một cuộc chiến tranh được coi tất yếu. Chúng ta không phủ nhận rằng những dự định cơ bản của chúng ta đối với Nga có thể vẫn được thực hiện thành công mà không cần tới chiến tranh. Chúng ta phải công nhận khả năng của một cuộc chiến tranh được bắt nguồn một cách lo gic và ở mọi thời đại từ quan điểm hiện nay của ban lãnh đạo Xô Viết; và chúng ta cần chuẩn bị cho khả năng này.

Nhưng, có thể là sai lầm khi cho rằng chính sách của chúng ta được dựa trên quan điểm về tính tất yếu của chiến tranh và bị hạn chế bởi việc chuẩn bị cho một cuộc xung đột vũ trang. Điều này không phải như vậy. Nhiệm vụ của chúng ta hiện nay, khi chưa có chiến tranh, đương nhiên được xác định bởi những hành động của người khá, - tìm ra những phương tiện thực hiện thành công những mục tiêu của chúng ta, chứ không tự thân sử dụng chiến tranh. Nhiệm vụ đó bao gồm những công việc chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh có thể xảy ra, song chúng ta chỉ coi chúng như những giải pháp hỗ trợ mang tính chất dự báo, chứ không như một thành tố hàng đầu của chính sách. Như trên đây, chúng ta vẫn tin tưởng và cố gắng đạt được những mục tiêu của mình trong khuôn khổ hòa bình. Còn nếu như một khi nào đó phải đi đến kết luận rằng điều đó thực sự không thể, rằng quan hệ giữa thế giới cộng sản và không cộng sản không thể không có một cuộc xung đột vũ trang, thì toàn bộ nền tảng của tài liệu này phải được xem xét lại, còn những dự định của chúng ta trong thời bình sẽ phải thay đổi hoàn toàn.

Hai là, Những dự kiến của chúng ta trong thời bình không phải là lật đổ Chính phủ Xô Viết. Theo nhận định chung, chúng ta để tạo dựng ra hoàn cảnh và tình huống làm cho những nhà lãnh đạo Xô Viết gặp khó khăn, bất ngờ. Rất có thể, khi phải đối mặt với chúng, họ không thể duy trì được quyền lực của mình ở Nga. Nhưng chúng tôi vẫn nhắc lại một lần nữa: đó là công việc của họ chứ không phải của chúng ta. Trong tài liệu này không xem xét tới vấn đề: liệu Chính phủ Xô Viết có thể hành động tương đối thận trọng và kiềm chế mà vẫn duy trì được chính quyền nội bộ của mình ở Nga. Nếu những tình huống thích hợp với những dự định của chúng ta trong thời bình sẽ thực sự xuất hiện và chúng không thích hợp với sự tồn tại của chính quyền nội bộ Xô Viết, buộc Chính phủ Xô Viết phải rời bỏ vũ đài, thì chúng ta sẽ thực hiện những thay đổi đó mà không phải hối hận. Tuy nhiên, chúng ta không cần thấy mình phải chịu trách nhiệm trong việc tìm kiếm và thực hiện chúng.
chuongxedap:

IV. Giành những mục tiêu cơ bản của chúng ta trong thời chiến

Trong phần này, những mục tiêu của chúng ta đối với Nga được xem xét trong trường hợp, nếu giữa Mỹ và Liên Xô xuất hiện tình trạng có chiến tranh. Đồng thời, những phương án rút lui một cách thuận lợi cho những chiến dịch quân sự của chúng ta cũng được xem xét tới.

1.Những nhiệm vụ không thể hoàn thành

Trước khi bắt đầu đề cập tới việc chúng ta cần nỗ lực đạt tới điều gì trong cuộc chiến tranh với Nga, chúng ta hãy làm rõ điều chúng ta mong muốn đạt được.

Trước hết, chúng ta phải công nhận rằng việc chiếm đóng và đặt toàn bộ lãnh thổ Xô Viết dưới sự quản lý hành chính quân sự của chúng ta sẽ không có lợi. Điều bất lợi là sự rộng lớn của lãnh thổ này, số lượng dân cư, sự khác biệt trong ngôn ngữ và phong tục giữa dân chúng địa phương với chúng ta, không thể thiết lập được bộ máy chính quyền địa phương thích hợp để chúng ta thông qua đó quản lý nó.

Hai là, chúng ta phải công nhận rằng liệu các thủ lĩnh Xô Viết có chịu đầu hàng chúng ta vô điều kiện. Có thể là chính quyền Xô Viết sẽ bị tan rã bởi một cuộc chiến tranh, tựa như việc đã từng xảy ra với chế độ Nga hoàng trong thời gian chiến tranh thế giới I. Còn nếu như sự tan rã đó không diễn ra, thì chúng ta không thể tin chắc rằng chúng ta có thể tiêu diệt chính quyền Xô Viết bằng bất kể phương tiện nào, ngoại trừ những hành động quân sự ngông cuồng nhằm chinh phục toàn nước Nga chấp nhận sự kiểm soát của mình. Chúng ta đã từng có kinh nghiệm đối với bọn phát xít, nó là tấm gương của sự kiên trì và kiên quyết mà nhờ đó một chế độ độc tài tàn ác có thể bấu víu vào quyền lực nội bộ của nó, thậm chí ngay cả trên lãnh thổ bị chia cắt bởi những chiến dịch quân sự. Các thủ lĩnh Xô Viết có thể, nếu bị bắt buộc, ký kết một hòa ước nhượng bộ, thậm chí là bất lợi đối với những lợi ích của họ. Song liệu họ có chịu chấp nhận một cái gì đó kiểu như đầu hàng vô điều kiện, hoàn toàn chịu sự chi phối của một chính quyền thù địch với họ. Họ sẽ nhanh chóng ẩn mình ở những vùng nông thôn hẻo lánh nhất ở Sibiri và rút cuộc sẽ chết, như Hitle, trước đòn tấn công của kẻ thù.

Hiện có một sự tin tưởng chắc chắn rằng nếu chúng ta tỏ ra vô cùng quan tâm tới mức độ có thể của điều này trong thời chiến và chúng ta sẽ không gây ra sự thù địch trong những người Xô Viết do cách xử sự độc ác của cảnh sát quân sự, thì sự tan rã của chính quyền Xô Viết trong quá trình chiến tranh sẽ trở nên phổ biến. Đây là điều, theo quan điểm của chúng ta, có thể coi là một kết cục thuận lợi. Chúng ta sẽ hoàn toàn đúng khi tạo ra sự tan rã đó bằng mọi phương tiện sẵn có trong tay. Song điều đó không có nghĩa là chúng ta có thể tin chắc vào việc chế độ Xô Viết hoàn toàn bị lật đổ, có nghĩa là chính quyền này bị thủ tiêu trên toàn bộ lãnh thổ Xô Viết hiện nay.

Tùy thuộc vào việc chính quyền Xô Viết còn duy trì được tại một phần lãnh thổ Xô Viết hiện nay, chúng ta không thể tin chắc rằng sẽ tìm được một nhóm thủ lĩnh chính trị trong số những người Nga - những người sẽ thực sự “dân chủ” theo cách hiểu của chúng ta về từ này.

Cho dù ở Nga đã từng có những thời điểm theo chủ nghĩa tự do, thì những công thức của nền dân chủ vẫn là xa lạ đối với đại bộ phận dân chúng Nga, đặc biệt là với những người có thiên hướng hoạt động quốc gia. hiện nay aaxn còn tồn tại nhiều nhóm chính trị Nga có ảnh hưởng trong số những ngoại kiều Nga; bằng lời nói, tất cả những người này đang tin theo những nguyên tắc của chủ nghĩa tự do ở một mức độ nhất định, còn một số người trong họ, theo quan điểm của chúng ta, có thể thích hợp với vai trò của người lãnh đạo trong chính phủ Xô Viết. Tuy nhiên, cho dù những nhóm này thiên về tự do đến mấy, thì không ai có thể biết, sau khi được trao quyền lực, liệu họ sẽ duy trì chính quyền bằng những biện pháp khủng bố và thanh trừng của cảnh sát không. Hành động của những người trong chính quyền thường được xác định rất rõ bởi hoàn cảnh để họ thực thi quyền lực, chứ không phải bởi những lý tưởng và những nguyên tắc đã từng khích lệ họ khi họ còn là phe đối lập. Khi chuyển giao việc quản lý chính quyền cho bất cứ nhóm người Nga nào, thì đừng bao giờ tin chắc rằng nhóm người đó sẽ điều hành bằng những phương pháp đã từng được nhân dân tán thành. Vì vậy, khi tiến hành một sự lựa chọn như thế là chúng ta đã liều lĩnh và gánh nhận trách nhiệm về mình, đừng bao giờ tin rằng chúng ta sẽ gánh vác trách nhiệm đó một cách xứng đáng.

Cuối cùng, chúng ta không thể tin tưởng rằng chỉ sau một thời gian ngắn những công thức dân chủ của chúng ta được cấy ghép thành công cho một nhóm thủ lĩnh Nga nào đó. Rút cuộc, tâm lý chính trị của bất cứ chế độ nào, ở một mức độ nào đó tùy thuộc vào ý chí của con người, nên nó sẽ là như chính của những con người đó. Những kinh nghiệm của chúng ta ở Đức và Nhật Bản đã chỉ rõ rằng không thể làm thay đổi tâm lý và những quan điểm của quảng đại quần chúng trong một thời gian ngắn, kể cả khi họ đã bị đánh bại và lệ thuộc hoàn toàn. Sự thay đổi đó chỉ có thể có được từ kinh nghiệm chính trị hữu cơ của dân tộc đó. Mức tối đa mà một đất nước có thể làm để đạt được sự thay đổi như vậy ở một nước khác là làm thay đổi những ảnh hưởng xung quanh đang tác động tới dân tộc đó, tập cho dân tộc đó phản ứng với những ảnh hưởng này theo cách nhìn nhận của mình.

Tất cả những điều này nói lên rằng, sau những hành động quân sự thành công ở Nga, chúng ta không thể trông chờ vào việc tạo dựng ở đó một chính phủ lệ thuộc hoàn toàn vào ý chí của chúng ta hay thể hiện hoàn toàn những lý tưởng chính trị của chúng ta. Chúng ta phải tính tới một khả năng đáng kể rằng chúng ta buộc phải hợp tác ở một mức độ nhất định với những chính quyền Nga mà chúng ta không thực sự tán thành, những mục tiêu của họ khác với của chúng ta, chúng ta phải chú ý tới những quan điểm và yếu điểm của họ xem chúng có thích hợp với chúng ta hay không. Nói một cách khác, chúng ta không thể hy vọng ý chí của chúng ta giành được một sự khẳng định hoàn toàn trên lãnh thổ Nga, tựa như việc chúng ta đã từng cố làm điều đó ở Đức và Nhật Bản. Chúng ta phải công nhận rằng cho dù cuối cùng chúng ta cũng đạt được một sự điều chỉnh nào đó, thì đó vẫn là sự điều chỉnh phi chính trị, một sai lầm chính trị.

Đó là những gì liên quan tới loại nhiệm vụ không thể hoàn thành. Vậy những mục tiêu mà chúng ta mong đợi và có khả năng trong trường hợp xảy ra chiến tranh với Nga là gì? Tương tự như những mục tiêu của thời bình, chúng có khởi nguồn lô gíc từ những mục tiêu chủ yếu đã đề cập ở phần III.
2. Làm suy giảm sức mạnh Xô Viết

Mục tiêu đầu tiên của chúng ta trong chiến tranh đương nhiên là phải tiêu diệt ảnh hưởng quân sự và sự thống trị của Nga tại những vùng tiếp giáp nằm ngoài biên giới quốc gia Nga.

Tất nhiên, việc chúng ta thành công trong cuộc chiến tranh tất yếu sẽ dẫn tới giành được kết quả tương tự ở phần lớn, nếu như không phải là tất cả, của vùng vệ tinh. Những thất bại quân sự liên tiếp của lực lượng Xô Viết có thể sẽ phá tan vị thế của những chế độ cộng sản ở các nước Đông Âu tới mức phần lớn trong số đó sẽ sụp đổ. Có thể vẫn còn những lò lửa theo kiểu “chủ nghĩa Tito” về chính trị, nghĩa là còn sót lại những chế độ cộng sản mang tính chất dân tộc và cục bộ thuần túy. Chúng ta có thể không cần chú ý tới số này. Theo thời gian, khi không còn sự hỗ trợ dưới dạng sức mạnh và vị thế của Nga, số này hoặc sẽ dần dần biết mất, hoặc sẽ hóa thân thành những chế độ dân tộc thông thường ít nhiều mang tính chất sô vanh và cực đoan rất đặc trưng cho những chính phủ dân tộc ở khu vực này. Đương nhiên, chúng ta phải tiêu diệt được mọi dấu vết mang hình thức của ảnh hưởng siêu nhiên từ Nga ở vùng này, như những hiệp ước liên bang chẳng hạn.

Nhưng, liên quan tới điều này, chúng ta vẫn còn vấn đề làm thay đổi biên giới Xô Viết theo mong muốn của chúng ta thông qua những hành động quân sự thắng lợi của mình. Chúng ta phải thành thật thú nhận rằng hiện nay chúng ta chưa thể làm rõ được câu hỏi này. Câu trả lời hầu hết còn tùy thuộc vào việc loại hình chế độ nào sẽ được hình thành sau những hành động quân sự tại chính vùng này. Nếu chế độ đó sẽ có được những viễn cảnh thuận lợi đủ để thực hiện những nguyên tắc của chủ nghĩa tự do trong các công việc nội bộ và sự kiềm chế trong chính sách đối ngoại, thì có thể trao cho chính quyền đó một phần lớn, nếu không phải là tất cả, lãnh thổ thu được từ Liên Xô qua cuộc chiến tranh vừa tiến hành. Chắc chắn hơn cả là nếu những chính quyền Nga sau chiến tranh còn có những hạn chế về khuynh hướng tự do và tính kiềm chế, thì việc thay đổi những đường biên giới có thể sẽ trở nên vô cùng cần thiết. Về điều này, có thể nói một cách đơn giản như về một trong những vấn đề cần để ngỏ cho tới chừng nào sự phát triển của những sự kiện chính trị và quân sự ở Nga chưa chứng tỏ cho chúng ta thấy hết tính chất của những khuôn khổ sau chiến tranh mà chúng ta đang thực thi.

Còn về vấn đề vị thế tư tưởng và huyền thoại Xô Viết mà Chính phủ Xô Viết hiện đang triển khai trên số những người nằm ngoài ranh giới của vùng vệ tinh hiện nay. Tất nhiên, vấn đề này trước hết tùy thuộc vào việc đảng cộng sản toàn liên bang hiện nay liệu có duy trì vị thế đó đối với một bộ phận nào đó của lãnh thổ Xô Viết hiện nay sau chiến tranh. Chúng ta đã từng xác định rằng chúng ta không thể loại trừ khả năng này. Nếu vị thế của những người cộng sản sẽ mất đi thì vấn đề đương nhiên sẽ được giải quyết. Song cần dự tính rằng trong mọi trường hợp chính kết cục chiến tranh không thành công của phía Xô Viết sẽ chắc chắn giáng một đòn quyết định vào hình thái quyền lực và ảnh hưởng của Xô Viết.

Dù sao đi nữa, chúng ta cùng phải tính rằng một trong những mục tiêu quân sự chủ yếu của chúng ta đối với Nga là tiêu diệt cơ bản cơ cấu quan hệ mà nhờ đó các thủ lĩnh của đảng cộng sản toàn liên bang có được một quyền lực mang tính kỷ luật và tinh thần đối với từng công dân hoặc những nhóm công dân tại những nước không nằm dưới sự kiểm soát cộng sản.

3. Làm thay đổi những công thức quan hệ quốc tế của Nga

Vấn đề này của chúng ta lại có liên quan tới những công thức sẽ xác định chính sách của Nga sau chiến tranh. Chúng ta liệu có thể tin tưởng rằng từ nay về sau chính sách của Nga sẽ được tiến hành theo hướng tiếp cận tối đa với những gì được chúng ta trông chờ trên đây? Đây chính là bản chất vấn đề của những mục tiêu của chúng ta trong chiến tranh đối với Nga và không thể không đánh giá.

Trước tiên, đây là vấn đề của chính quyền Xô Viết tương lai, tức là của chính quyền của đảng cộng sản ở Liên Xô. Đây là vấn đề cực kỳ khó khăn, không thể trả lời một cách đơn giản. Chúng ta biết rằng chúng ta sẽ chào đón, thậm chí cố gắng làm cho chính quyền Xô Viết bị tiêu diệt, bị xóa bỏ và chúng ta không thể tin tưởng hoàn toàn rằng chúng ta sẽ đạt được điều này. Đương nhiên, chúng ta có thể xem đây như là một nhiệm vụ tối đa, chứ không phải là tối thiểu. Tới lúc đó, nếu dự tính rằng sự tồn tại của một chính quyền Xô Viết tại một phần lãnh thổ Xô Viết sau khi kết thúc những hành động quân sự là tối ưu, thì thái độ của chúng ta đối với nó sẽ ra sao? Liệu chúng ta nói chung có nhất trí duy trì quan hệ với nó? Nếu có, thì chúng ta cần thiết lập ra những điều kiện gì?

Trước hết, chúng ta phải công nhận như một quyết định được thông qua trước đó rằng chúng ta không nên ký hòa ước và (hoặc là) thiết lập quan hệ ngoại giao có điều chỉnh với bất kỳ chế độ nào ở Nga mà người cầm đầu chúng là một ai đó trong số những thủ lĩnh Xô Viết hiện nay hay là người đang làm cho tư tưởng của họ bị phân ly. Qua 15 năm gần đây chúng ta đã có kinh nghiệm đáng buồn về vấn đề này; còn nếu chúng ta buộc phải tiến hành chiến tranh để bảo vệ nền chính trị và những hành động của chúng tránh những hậu quả, thì công luận của chúng ta liệu có tha thứ cho những thủ lĩnh Xô Viết vì những hậu quả tương tự hoặc lại tiếp tục nỗ lực hợp tác bình thường.

Mặt khác, nếu phải duy trì chế độ cộng sản để hoàn thành những hành động quân sự trên phần lãnh thổ Xô Viết, thì liệu chúng ta sẽ hoàn toàn không phải đếm xỉa gì đến nó. Trong mọi khả năng của chúng ta, nó không thể không tạo ra một nguy cơ tiềm năng đe dọa hòa bình và ổn định của chính nước Nga và của cả thế giới. Điều tối thiểu chúng ta cần làm là hãy tin tưởng rằng khả năng gây hại của nó bị hạn chế tới mức không thể gây thiệt hại thực sự, rằng chính chúng ta hoặc những lực lượng thân thiện với chúng ta vẫn kiểm soát được mọi việc.

Để có được điều này cần hai điều kiện. Một là, sẽ cần có một sự hạn chế thực sự về mặt vật lý sức mạnh của chế độ còn sót lại này sao cho nó không thể gây ra một cuộc chiến đe dọa và gây lo lắng cho các dân tộc khác cũng như các chế độ Nga khác. Nếu như những hành động quân sự dẫn tới việc kiên quyết cắt giảm phần lãnh thổ nằm trong vùng ảnh hưởng của những người cộng sản, đặc biệt, nếu như sự cắt giảm như thế làm mất đi những yếu tố then chốt của chúng trong cơ cấu công nghiệp - quân sự hiện nay của Xô Viết, thì sự hạn chế vật lý sẽ đương nhiên xảy ra. Nếu như vùng lãnh thổ nằm dưới sự kiểm soát của chúng sẽ không bị nhỏ đi một cách đáng kể, thì có thể đạt tới kết quả này bằng cách tăng cường phá hoại các công trình kinh tế và công nghiệp quan trọng từ trên không. Rất có thể phải sử dụng tới cả hai phương thức này. Nhưng dù sao đi chăng nữa, chúng ta có thể kết luận dứt khoát rằng chúng ta không thể coi những hành động quân sự của mình là thành công, nếu sau những hành động như thế chế độ cộng sản vẫn được duy trì sự kiểm soát đối với tiềm năng công nghiệp - quân sự hiện nay và đủ sức để trong những điều kiện tương tự tiến hành chiến tranh với một quốc gia láng giềng hoặc với một chính quyền cạnh tranh cùng nó - chính quyền có thể được thiết lập trên lãnh thổ Nga truyền thống.
chuongxedap:

Điều thứ hai đòi hỏi ở chúng ta, - trong trường hợp nếu chính quyền Xô Viết nói chung được duy trì trên lãnh thổ Nga truyền thống, - đấy là những điều kiện nào đó xác định thái độ quân sự của nó đối với chúng ta và đối với những chính quyền của các nước xung quanh. Nói cách khác, chúng ta cần có một hình thức quan hệ nhất định đối với chế độ như vậy. Hiện tại, điều này gây bất lợi cho chúng ta, song nhờ đó, hoàn toàn có thể là những lợi ích của chúng ta sẽ được bảo vệ tốt hơn so với việc sử dụng những hành động quân sự có quy mô lớn để chế áp hoàn toàn chính quyền Xô Viết.

Có thể nói một cách tin chắc rằng những điều kiện này đối với chế độ cộng sản sẽ bị coi là độc ác và công khai hạ nhục. Chúng có thể gợi nhớ tới những điều kiện của Hòa ước Brest-Litov năm 19181. Sự kiện người Đức đã ký kết hòa ước này không có nghĩa là họ thực sự công nhận ưu thế của chế độ Xô Viết. Họ đã cho rằng hòa ước làm cho chế độ Xô Viết trở nên an toàn đối với họ trong một thời gian và đặt nước Đức trước những vấn đề mang tính sống còn. Người Nga đã hiểu rằng trong đó có âm mưu của Đức. Họ tỏ ra thiếu dứt khoát và có ý định phá bỏ hòa ước khi có điều kiện thuận lợi. Nhưng ưu thế của Đức về lực lượng là có thực và các tính toán của Đức có tính hiện thực. Nếu như Đức không bị thất bại ở phía Tây ngay sau khi ký Hòa ước Brest-Litov, thì liệu Chính phủ Xô Viết có thể ngăn chặn được Đức giành lấy những mục tiêu của chúng tại Nga. Chính tại thời điểm then chốt này Chính phủ chúng ta dường như đã có thể xử lý chế độ Xô Viết vào giai đoạn cuối của xung đột vũ trang.

Không thể nói trước được tính chất của những điều kiện đó sẽ ra sao. Phần lãnh thổ còn nằm trong sự điều hành của chế độ này càng bé, thì nhiệm vụ thúc đẩy những điều kiện này thỏa mãn những lợi ích của chúng ta càng trở nên dễ dàng hơn. Trong trường hợp tệ hại nhất, tức là khi chính quyền Xô Viết vẫn còn được duy trì trên toàn bộ hoặc hầu như trên toàn bộ lãnh thổ Xô Viết hiện nay, chúng ta cần phải có:

a) Những điều kiện quân sự trực tiếp (giao nộp trang bị, triệt thoái những vùng then chốt,...) nhằm bảo đảm sự triệt tiêu quân sự trong một thời gian dài.

b) Những điều kiện có khuynh hướng tạo lập sự lệ thuộc thực sự về kinh tế vào thế giới bên ngoài.

c) Những điều kiện có khuynh hướng trao quyền tự do cần thiết hoặc định chế liên bang cho các dân tộc thiểu số (chúng ta chí ít cũng cần bảo vệ nền tự do hoàn toàn cho các quốc gia vùng Baltik và bảo đảm định chế liên bang cho Ucraina để cho phép chính quyền địa phương Ucraina có được một mức độ tự trị cao nhất).

d) Những điều kiện có khuynh hướng phá hoại bức màn sắt và bảo đảm cho sự lưu thông tự do cho tư tưởng từ bên ngoài và thiết lập những cuộc tiếp xúc đông đảo giữa những người đang nằm trong vùng của chính quyền Xô Viết với những người ngoài vùng đó.

Những mục tiêu của chúng ta đối với bất kỳ một chính quyền Xô Viết nào còn sót lại là như vậy. Còn vấn đề: những mục tiêu của chúng ta đối với chính quyền phi cộng sản - một chính quyền có thể được thiết lập trên một phần hoặc trên toàn bộ lãnh thổ Nga sau những hành động quân sự sẽ như thế nào.

Trước hết, cần phải nói rằng tùy thuộc vào nền tảng tư tưởng của chính quyền phi cộng sản đó và tùy thuộc vào mức độ nó trung thành với lý tưởng dân chủ và tự do, chúng ta cần phải bằng cách này hay cách khác bảo đảm hoàn thành những nhiệm vụ cơ bản đã được nêu ở trên. Nói cách khác, chúng ta đương nhiên phải thực hiện những biện pháp cảnh giác để đảm bảo rằng chế độ phi cộng sản và thân thiện với chúng ta về mặt danh nghĩa đó là một chế độ:

a) Không có lực lượng vũ trang mạnh;

b) Còn phụ thuộc đáng kể về kinh tế vào thế giới bên ngoài;

c) Không có một quyền lực quá lớn đối với các dân tộc thiểu số chủ yếu;

d) Không tạo ra bất cứ điều gì gợi nhớ tới bức màn sắt trong những quan hệ với thế giới bên ngoài.

Trong trường hợp có một chế độ thù địch với những người cộng sản và thân thiện với chúng ta, chúng ta rõ ràng cần xem xét và thúc đẩy những điều kiện đó sao cho tế nhị và tôn trọng. Tuy nhiên, chúng ta cần chú ý để những điều kiện đó, bằng cách này hay cách khác, được thúc đẩy, nếu chúng ta muốn bảo vệ những lợi ích của chúng ta và những lợi ích của thế giới trên toàn thế giới.

Vì vậy, chúng ta có thể mạnh dạn nói rằng, mục tiêu của chúng ta trong trường hợp có chiến tranh với Liên Xô, được theo đuổi sau khi kết thúc chiến tranh là không một chế độ nào trên lãnh thổ Nga được phép:

a) Duy trì lực lượng quân sự ở quy mô có thể đe dọa bất kỳ một nước láng giềng nào;

b) Duy trì sự tự chủ về kinh tế ở mức độ có thể tạo ra cơ sở kinh tế cho lực lượng vũ trang mà không cần tới sự hỗ trợ của thế giới phương Tây;

c) Thiết lập chế độ tự trị và tự quản đối với các dân tộc thiểu số;

d) Duy trì một hình thái tương đồng với bức màn sắt.

Nếu việc hoàn thành những điều kiện này được bảo đảm thì chúng ta có thể mô phỏng được mọi tình huống chính trị sau chiến tranh. Khi đó chúng ta sẽ an toàn, không bị phụ thuộc vào việc chính quyền Xô Viết có được duy trì trên toàn bộ lãnh thổ Nga hay không, hay chỉ trên một phần nhỏ của nó, hay bị biến mất hoàn toàn. Và chúng ta sẽ an toàn ngay cả khi lòng nhiệt thành ban đầu với nền dân chủ giảm dần và nhường chỗ cho sự pha trộn (confecion) chống xã hội từng được nuôi dưỡng trong thế hệ hiện nay của những người Xô Viết. Điều nói trên cần được coi là biểu hiện tương thích với những mục tiêu chiến tranh của chúng ta ngay cả trong trường hợp nếu nhờ chiến tranh mà các quá trình chính trị ở Nga có được con đường riêng của nó và chúng ta sẽ buộc phải nhận lãnh một trách nhiệm nghiêm túc về tương lai chính trị của đất nước. Tuy nhiên, vẫn còn những câu hỏi cần được trả lời trong trường hợp nếu chính quyền Xô Viết bị tiêu diệt quá nhanh và quá triệt để tới mức đất nước sẽ rơi vào hỗn loạn, làm cho chúng ta - những người chiến thắng trở nên khó khăn trong để hoàn thành một sự lựa chọn chính trị và thông qua những quyết định hình thành tương lai chính trị của đất nước. Trong một khả năng như thế, chúng ta sẽ vấp phải 3 vấn đề cơ bản.
__________________________________
1. Hòa ước Brest-Litov được ký kết ngày 3 tháng 3 năm 1918, chấm dứt những hành động quân sự giữa nước Nga Xô Viết với các cường quốc ở Trung Âu. Những điều kiện của nó bao gồạơ độc lập của Ucraina, Gruzia, Phần Lan, việc chuyển giao cho các cường quốc Trung Âu các nước BaLan, các quốc gia vùng Baltik và một phần của Belorus, việc chuyển giao Kars, Ardakhan và Batum cho Thổ Nhĩ Kỳ. Đức là nước có liên quan tới những điều kiện của Hiệp ước về hòa giải giữa Đức và các cường quốc Trung Âu được ký ngày 11 tháng 11 năm 1918. ND.
chuongxedap:

4. Vấn đề chia tách và an ninh quốc gia

Trước hết, chúng ta mong muốn điều gì trong trường hợp như sau: để những lãnh thổ hiện nay của vẫn nằm dưới một chế độ duy nhất hay chia nhỏ chúng ra? Nếu chúng vẫn là một thể thống nhất, thì mức độ của hình thức liên bang cần phải được thực hiện trong Chính phủ Nga tương lai ra sao? Các dân tộc thiểu số chủ yếu sẽ ra sao, đặc biệt là trong trường hợp của Ucraina?

Chúng ta đã từng đề cập tới vấn đề của các quốc gia vùng Baltik. Các quốc gia vùng Baltik không nhất thiết phải nằm dưới một chính quyền cộng sản sau chiến tranh. Nếu vùng lãnh thổ tiếp giáp với các quốc gia thuộc Baltik sẽ được các chính quyền Nga điều hành khác với cách điều hành của những chính quyền cộng sản, thì chúng ta cần tuân theo ý nguyện của các dân tộc vùng Baltik và mức độ kiềm chế mà các chính quyền Nga thể hiện trong quan hệ với những dân tộc này.

Trong trường hợp đối với Ucraina chúng ta có vấn đề sau: Người Ucraina là dân tộc tiến bộ nhất trong những dân tộc hiện nay đang lệ thuộc Nga. Họ chủ yếu khó chịu với sự thống trị của Nga, còn những tổ chức dân tộc của họ đang hoạt động rất tích cực và có vị thế với các nước khác. Vì vậy, có thể dễ dàng đi đến kết luận rằng cuối cùng họ phải được giải phóng khỏi quyền lực Nga và được tự chủ như một quốc gia độc lập. Chúng ta cần thận trọng với kết luận này, vì chính sự đơn giản của nó không thích hợp với những điều kiện hiện thực của Đông âu.

Thực ra, người Ucraina đang phải chịu ở dưới quyền lực của Nga và buộc phải làm điều gì đó để bảo vệ vị thế của họ trong tương lai. Tuy nhiên có những sự kiện cơ bản nhất định không cho phép họ làm như vậy. Mặc dù người Ucraina là một thành viên quan trọng và đặc biệt trong đế chế Nga, họ không thể chứng tỏ mình là “một dân tộc” có khả năng giải quyết thành công những vấn đề về độc lập mà bất chấp sự phản đối của Nga. Ucraina không phải là một khái niệm địa lý hay sắc tộc được xác định một cách chính xác. Dân cư Ucraina cơ bản khởi nguồn từ những người lẩn tránh chính thể chuyên chế Nga và Ba Lan, nên vẫn là những người Nga và Ba Lan. Ranh giới giữa Nga và Ucraina không rõ ràng nên rất khó xác lập. những thị dân trên lãnh thổ Ucraina chủ yếu là nga Nga và Do Thái. Nền tảng thực sự của “tính Ucraina” - đó chỉ là cảm giác của “sự khác biệt” trong thổ ngữ nông dân và sự khác biệt không đáng kể trong văn hóa dân gian và tập tục ở các vùng nông thôn. Còn cái gọi là những trao lưu chính trị - thì đó chỉ là sản phẩm của một số trí thức lãng mạn không có chút khái niệm gì về cơ cấu quốc gia.

Nền kinh tế của Ucraina cơ bản gắn bó chặt chẽ với nền kinh tế Nga, không hề có tự chủ về kinh tế kể từ khi lãnh thổ này bị những người du mục Tarta chiếm đoạt. ý định tách nó ra khỏi nền kinh tế Nga trở nên tự chủ chỉ mang tính nhân tạo và đã bị phá sản tựa như ý định tách vùng thắt lưng Kukuruz để nhập vào vùng công nghiệp của vùng hồ Veliki ra khỏi nền kinh tế Mỹ.

Hơn nữa, những người nói bằng thổ ngữ Ucraina đang bị tách ra như những người nói bằng thổ ngữ Belorus - ở Đông Âu, đây là dấu hiệu luôn được coi là tiêu chí mang tính dân tộc thực sự, mà đúng hơn là tiêu chí tôn giáo. Nếu ở Ucraina có thể sẽ vạch ra một ranh giới thực sự nào đó, thì lô gíc hơn cả là ranh giới giữa các vùng theo tín ngưỡng của giáo hội phương Đông và theo tín ngưỡng giáo hội La Mã.

Rút cuộc, chúng ta không thể thờ ơ với tình cảm của chính những người theo chủ nghĩa Đại Nga. Chúng là một thành tố mạnh nhất của đế chế Nga, và hiện nay ở Liên Xô. Chúng vẫn sẽ là thành tố dân tộc mạnh nhất trên lãnh thổ này cho dù ở dưới định chế nào. Mọi chính sách dài hạn của Mỹ cần dựa trên cơ sở công nhận chúng và hợp tác với chúng. Lãnh thổ của Ucraina hiện là di sản của chúng tựa như vùng Cận Đông đối với Mỹ, và chúng nhận thức được vấn đề này. Quyết định nhằm tách Ucraina khỏi nước Nga cổ xưa đều gây cho họ lòng căm thù và sự phản đối, và rút cuộc chỉ có thể tiến hành bằng vũ lực. Hoàn toàn có thể là những người theo chủ nghĩa đại Nga sẽ buộc phải công nhận nền độc lập mới của các quốc gia vùng Baltik. Một thời gian dài trong quá khứ họ đã tỏ ra khoan hòa với nền độc lập của những vùng lãnh thổ này đối với sự điều hành Nga; và hiện họ vẫn công nhận, cho dù là trong tiềm thức hay không, rằng những dân tộc này có khả năng độc lập. Còn thái độ đối với người Ucraina lại khác. Họ rất gần gũi với người Nga. Cho dù điều đó là tốt hay xấu, song họ buộc phải xác định số phận của mình trong mối quan hệ đặc biệt với dân tộc đại Nga.

Dường như rất rõ ràng rằng mối quan hệ đó trở nên tối ưu trong thể chế liên bang mà Ucraina sẽ có một mức độ tự trị đáng kể về chính trị và văn hóa, nhưng sẽ không độc lập về kinh tế hay quân sự. Những mối quan hệ như thế dường như cũng thỏa mãn với những đòi hỏi của chính đại Nga. Vì vậy, có thể chỉ ra rằng trong khuôn khổ đó cần bao gồm cả những mục tiêu của Mỹ đối với Ucraina.

Cần nhận thấy rằng vấn đề này là lớn hơn rất nhiều so với vấn đề của một tương lai xa. Những phần tử Ucraina và đại Nga trong số những nhóm kiều dân Nga đối lập đang có sự cạnh tranh rất quyết liệt để giành sự ủng hộ từ phía Mỹ. Thái độ ứng xử của chúng ta đối với những đòi hỏi này đều có thể gây nên một ảnh hưởng quan trọng đối với diễn biến và kết quả của phong trào đòi tự do chính trị trong số những người Nga. Vì vậy, điều quan trọng là chúng ta cần có quyết định của mình và kiên quyết theo đuổi quyết định đó. Một quyết định đương nhiên không thể là thân Nga hay thân Ucraina, song cần công nhận thực tiễn lịch sử, địa lý và kinh tế và phải tạo cho Ucraina một vị trí xứng đáng có thể chấp nhận được trong gia đình của đế chế Nga truyền thống và là phần không thể tách rời

Cần phải nói thêm rằng, cho dù đã nói ở trên, chúng ta cần ủng hộ khuynh hướng phân liệt của Ucraina một cách không định kiến. Tuy nhiên, nếu trên lãnh thổ Ucraina sẽ thiết lập một chế độ độc lập mà không có sự tham gia của chúng ta, thì chúng ta cũng đừng công khai chống lại nó. Nếu làm như vậy là chúng ta nhận lãnh cho mình một trách nhiệm không cần thiết về những thay đổi nội bộ ở Nga. Cuối cùng thì một chế độ như thế sẽ tự cạnh tranh với Nga. Nếu sự cạnh tranh đó thành công, thì điều đó chứng tỏ rằng sự phân tích trên đây đã sai lầm, rằng Ucraina thực sự có khả năng và có quyền lợi tinh thần về một định chế độc lập. Chính sách của chúng ta trước hết là phải thể hiện thái độ trung lập cho tới chừng nào mà những lợi ích của chúng ta - về quân sự hay mặt khác, - không trực tiếp bị thiệt hại. Chỉ khi nào sự trì trệ ngoài ý muốn đang phát triển mặt cách rõ ràng, thì chúng ta mới cần ủng hộ những yếu tố khác biệt trong khuôn khổ một định chế liên bang cho phép. Điều này cũng liên quan tới bất kỳ ý định giành định chế độc lập nào từ phía các dân tộc thiểu số khác ở Nga. Rất ít có khả năng cho một dân tộc thiểu số nào đó có thể duy trì thành công và lâu dài một nền độc lập thực sự. Tuy nhiên, nếu họ sẽ có một ý định như thế (và cũng hoàn toàn có thể là các dân tộc ở Kavkaz sẽ làm như thế), thì thái độ của chúng ta cũng phải tương tự như đối với Ucraina. Chúng ta cần thận trọng để không đặt mình vào tình trạng chống đối công khai những ý định như thế, bởi nó sẽ làm cho chúng ta mất đi sự đồng cảm của thiểu số này. Mặt khác, chúng ta không cần ủng hộ chúng trong những hành động mà rút cuộc chúng có thể được thực hiện với sự hỗ trợ về quân sự từ phía chúng ta.
chuongxedap:

5. Lựa chọn nhóm cầm quyền mới

Trong trường hợp chính quyền Xô Viết bị tiêu diệt chúng ta sẽ luôn gặp những đòi hỏi hỗ trợ từ phía những phần tử chính trị cạnh tranh khác nhau trong số những nhóm đối lập hiện nay ở Nga. Chúng ta thực sự không thể lảng tránh sự ủng hộ cho một nhóm này hay nhóm khác mà không gây tổn hại cho phía bị cạnh tranh. Tuy nhiên, có khá nhiều điều sẽ tùy thuộc vào chính chúng ta và quan niệm của chúng ta về mục tiêu mà chúng ta đang cố giành lấy.

Chúng ta đã thấy rằng trong số những nhóm đối lập có tiềm năng và đang tồn tại không có lấy một nhóm nào để chúng ta muốn ủng hộ một cách hoàn toàn vì những hành động của chúng, trong trường hợp nếu giàng được chính quyền ở Nga đều buộc chúng ta phải chịu trách nhiệm.

Mặt khác, chúng ta cần chờ đợi rằng những nhóm khác nhau sẽ tìm mọi cách buộc chúng ta can dự vào công việc nội bộ của Nga và sử dụng những biện pháp mà chúng ta phải chịu trách nhiệm và là căn cứ để các nhóm chính trị ở Nga tiếp tục đòi hỏi sự ủng hộ của chúng ta. Dưới ánh sáng của những sự kiện như thế, rõ ràng là chúng ta cần áp dụng những nỗ lực nhất định để tránh một trách nhiệm về việc quyết định ai sẽ điều hành nước Nga sau khi chế độ Xô Viết bị tiêu diệt. Phương án tốt nhất đối với chúng ta - đó là cho phép mọi kiều dân trở về nước Nga càng nhanh càng tốt để tất cả những người này có cơ hội bằng nhau thể hiện khuynh hướng quyền lực của họ. Quan điểm cơ bản của chúng ta phải là: cuối cùng, nhân dân Nga phải làm một sự lựa chọn riêng của mình và chúng ta không có ý định tác động vào sự lựa chọn đó. Do đó, chúng ta không nhất thiết phải có người được che chở, và chúng ta cần giám sát để mọi nhóm cạnh tranh đều nhận được cơ hội trình bày những lý lẽ của họ cho nhân dân Nga thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Rõ ràng là trong sự cạnh tranh của mình, các nhóm này sẽ dùng tới bạo lực. Thậm chí cả trong trường hợp như thế, chúng ta không nên can thiệp tới chừng nào chúng chưa động tới những lợi ích quân sự của chúng ta và tới khi âm mưu của bất kể nhóm nào nhằm thiết lập chính quyền của mình chưa dẫn tới những cuộc thanh trừng dã man, có quy mô lớn, mang tính độc tài làm tổn hại tới các thủ lĩnh của những đảng đối lập và chính nhân dân.


6. Vấn đề “phi cộng sản hóa”

Tại bất cứ lãnh thổ nào được giải phóng khỏi sự cầm quyền của Xô Viết, chúng ta đều có thể vấp phải vấn đề về tàn dư của bộ máy chính quyền Xô Viết.

Rõ ràng là trong trường hợp Lực lượng vũ trang Xô Viết rút quân hoàn toàn khỏi lãnh thổ Xô Viết hiện nay, bộ máy địa phương của đảng cộng sản sẽ rút vào bí mật như cách đã từng làm ở những vùng bị quân Đức chiếm đóng trong chiến tranh quá khứ. Rất có thể bộ máy đó thỉnh thoảng lại xuất hiện như những toán du kích. Với cung cách này, vấn đề xử lý nó khá đơn giản. Chỉ cần chúng ta cung cấp vũ khí cần thiết và sự hỗ trợ quân sự cho bất kỳ chính quyền Nga phi cộng sản nào có khả năng kiểm soát khu vực và cho phép chính quyền đó xử lý những đám cộng phỉ bằng những phương pháp cơ bản truyền thống của một cuộc nội chiến Nga.

Vấn đề xử lý sẽ trở nên khó khăn hơn đối với những quan chức và đảng viên cấp hai của đảng cộng sản - những người này có thể bị phát giác và bị bắt giam hoặc có thể cầu xin sự tha thứ từ lực lượng vũ trang của chúng ta hoặc từ bất kỳ chính quyền Nga nào đang cầm quyền trên lãnh thổ này.

Với vấn đề này, chúng ta cũng không cần thiết nhận lãnh trách nhiệm về số phận của những người này hay ra những mệnh lệnh trực tiếp cho chính quyền địa phương về cách xử lý. Về mặt đạo đức, chúng ta có quyền bảo vệ để họ giải giáp vũ trang và để cho họ không chiếm những vị trí then chốt trong chính phủ chừng nào những người này chưa chứng tỏ một cách rõ ràng là đã thực sự biến đổi về mặt tư tưởng. Song, về cơ bản, điều này cần phải là vấn đề của chính quyền Nga - những chính quyền có khả năng thay thế chế độ cộng sản. Chúng ta có thể tin rằng một chính quyền như thế sẽ xử lý thành công hơn chính chúng ta rất nhiều. Họ có thể đánh giá mức độ nguy hiểm của những cựu đảng viên cộng sản đối với chế độ mới và biết cách xử lý sao cho những người này không thể gây hại trong tương lai. Mối quan tâm chủ yếu của chúng ta là theo dõi không để cho bất cứ chế độ cộng sản nào như thế tái lập tại những vùng chúng ta đã giải phóng và tại những vùng mà theo quyết định của chúng ta phải độc lập với sự kiểm soát của cộng sản. Ngoài ra, chúng ta cần thận trọng tránh để bị lôi kéo vào vấn đề “phi cộng sản hóa”.

Nguyên nhân chủ yếu của vấn đề này là các quá trình chính trị ở Nga đang diễn ra rất phức tạp và không thể lường trước. Trong đó không có một điều gì là đơn giản và không thể nói trước được điều gì. Và rất hiếm khi, nếu như là có thể, màu sắc của nó là thuần trắng hoặc thuần đen. Bộ máy cộng sản hiện nay rõ ràng có một bộ phận khá mạnh gồm những người được đào tạo và có thiên hướng tham gia vào quá trình quản lý. Và bất cứ một chế độ mới nào cũng sẽ buộc phải sử dụng công sức của nhiều người trong số này để có khả năng điều hành được đất nước nói chung. Hơn nữa, chúng ta không thể trong từng trường hợp cụ thể gây ra những lý do để đẩy từng công dân Nga sang phía hợp tác với phong trào cộng sản. Chúng ta cũng không thể đánh giá mức độ mà trong đó sự hợp tác như thế là sẽ làm tổn hại thanh danh hoặc nguy hiểm về mặt hình sự đối với những người Nga khác. Đối với chúng ta, hành động này là rất nguy hiểm. Chúng ta phải luôn luôn nhớ rằng sự truy sát từ phía chính phủ nước ngoài tất yếu sẽ làm cho dân chúng địa phương khó chịu.

Vì vậy, đối với những lãnh thổ được giải phóng khỏi sự kiểm soát của cộng sản, chúng ta cần tinh tế hơn và hạn chế giám sát để một số cựu đảng viên cộng sản không có cơ hội tái tổ chức thành những nhóm vũ trang mang kỳ vọng giành quyền lực chính trị và để cho các chính quyền phi cộng sản ở địa phương được cung cấp đủ vũ khí cũng như được hỗ trợ theo đúng ý muốn của họ.

Do đó, chúng ta có thể nói rằng chúng ta không nhất thiết đặt ra cho mình mục tiêu là tiến hành một chương trình phi cộng sản hóa với quy mô nào đó bằng lực lượng riêng của mình trên lãnh thổ được giải phóng khỏi chính quyền cộng sản; rằng về cơ bản chúng ta phải giành vấn đề đó cho bất kỳ một chính quyền địa phương nào có khả năng loại bỏ sự quản lý của cộng sản.(Containtmen: Documents on American policy and strategy, 1945 - 1950. Ed: Etzold Thomas H. and Gaddis Tohn Lewis. N.-Y.: Columbia univ. press, 1978).
chuongxedap:

Phụ lục N0 5.
Quyền uỷ trị điều hành - 3.
Những kiến nghị của Trung tâm nghiên cứu “Haritidg Foundation”
thuộc Văn phòng Tổng thống Bush

Phần “Quan hệ Mỹ - Liên Xô“

Trong đường lối đối ngoại Mỹ, Liên Xô là đối tượng chủ yếu của sự bất an. Hiện nay, ở Liên Xô đang diễn ra những thay đổi rất rõ ràng, và Mỹ cần thường xuyên theo sát những diễn biến ở Liên Xô. Những thay đổi đó bao gồm: những trào lưu “cải tổ”, “công khai”, “dân chủ hóa” do thủ lĩnh Xô Viết Mikhain Gorbachov khơi mào và việc xét lại một phần học thuyết quân sự và chính trị đối ngoại được biết tới như một “tư duy mới” (tên một cuốn sách lý luận của Gorbachov).

Trong quan hệ đối với Liên Xô, Tổng thống mới cần lãnh đạo nhiệm vụ chung sau đây:

- Làm giảm mối đe dọa quân sự của Xô Viết đối với phương Tây để duy trì ổn định chiến lược bằng con đường kiềm chế mạnh mẽ và có hiệu quả một cuộc xâm lược với sức mạnh đe dọa;

- Khích lệ Matxcơva và các nước vệ tinh của nó theo đuổi một đường lối đối nội và đối ngoại phù hợp hơn với nền an ninh và những giá trị của phương Tây.

Liên Xô, như đế chế Nga tiền bối của nó, là một cường quốc đa dân tộc, trong đó dân tộc đại Nga chiếm chưa được một nửa dân số nên họ rõ ràng là dân tộc thiểu số. Để có được sự ủng hộ từ trước của những dân tộc không phải Nga trong cuộc đấu tranh giành chính quyền của mình, thủ lĩnh Bolxevich Vladimir Lênin đã trao cho họ quyền tách khỏi thành phần của Nga và thành lập những quốc gia có chủ quyền. Tuy nhiên, vào năm 1922, ông ta đã sử dụng sức mạnh quân sự để buộc họ vào cùng một quốc gia. Vấn đề này cho tới nay vẫn chưa có cách nào giải quyết, mà bằng chứng của nó là những vụ bột phát tình cảm dân tộc mới đây tại Armeni và những nước cộng hòa vùng Baltik đòi độc lập, nếu chưa phải về mặt chính trị thì cũng là kinh tế, đối với Matxcơva.

Chính quyền mới cần vạch ra chiến lược dài hạn liên quan tới việc phi thuộc địa hóa các nước công hòa dân tộc Xô Viết trong thành phần đế chế Xô Viết. Đầu tiên, Tổng thống mới cần gọi Liên Xô bằng cái tên thực sự của nó - đế chế thuộc địa cuối cùng trên thế giới. Sau đó, cần ủng hộ vững chắc về mặt tinh thần cho những lực lượng giải phóng dân tộc chống thuộc địa trong lòng Liên Xô. Sự tán thành mà Mỹ nhận được từ một nửa dân chúng Xô Viết sẽ bù đắp được một cách đáng kể đối với phản ứng chính thức tiêu cực có thể xảy ra từ những người Xô Viết.

Những sáng kiến cho năm 1989

...

3. Phản ứng với tình hình khủng hoảng ở các nước Trung Âu và Đông Âu. Những diễn biến phát triển tình hình khủng hoảng ở các nước Trung Âu và Đông Âu là hết sức rõ ràng, tình hình kinh tế đang xấu đi nhanh chóng, khủng hoảng về cơ sở pháp lý của định chế các đảng cộng sản đang cầm quyền và những tín hiệu sai lầm từ Matxcơva đang trở nên sâu sắc. Tình hình ở Hung Ga Ri và Ba Lan đặc biệt mất ổn định. Tổng thống mới đắc cử phải hình thành một nhóm liên bộ về khu vực Trung và Đông Âu, người đứng đầu là cố vấn của Tổng thống về an ninh quốc gia, chịu trách nhiệm phân tích chính sách toàn cầu của Xô Viết. Trong thành phần của nó cần có sự tham gia của các đại diện Hội đồng An ninh quốc gia, Quốc hội, Bộ Quốc phòng, Thương mại và Tài chính. Tùy theo khả năng, trong mỗi thời hạn nhanh tối đa, tổ chức chuyên gia này cần kiến nghị cho Tổng thống những giải pháp phản ứng của Mỹ về ngoại giao, kinh tế, chính trị và quân sự đối với tình hình khủng hoảng ở Trung và Đông Âu.

Những giải pháp này có thể bao gồm:

- Tuyên bố của các lãnh đạo các nước NATO về việc lên án sự can thiệp của Liên Xô;

- Phê chuẩn về kinh tế chống Liên Xô khi Liên Xô can thiệp quân sự;

- Triệu hồi đại sứ các nước phương Tây rời khỏi Liên Xô;

- Triển khai lực lượng vũ trang NATO ở mức sẵn sàng chiến đấu khác nhau;

- Hành động phối hợp của các nước phương Tây tại Liên Hợp Quốc.

Tổng thống cần thảo luận các phương án hành động có thể nêu trên với các đồng minh của Mỹ và hình thành nên một cơ chế nhất định bảo đảm một phản ứng chiến thuật thích hợp của các đồng minh trước mọi tình huống khủng hoảng ở Trung và Đông Âu.

4. Củng cố an ninh kinh tế của phương Tây. Trong những điều kiện Liên Xô tiến hành chiến lược chủ động và tích cực đối với những thị trường thương mại và tài chính của các nước phương Tây, Mỹ cần giành về mình vai trò thủ lĩnh trong việc củng cố an ninh kinh tế phương Tây. Hoa Kỳ cần hướng sự chú ý của các đồng minh vào vấn đề “cam kết không liên quan” các khoản nợ do các tổ chức tài chính phương Tây cung cấp cho Liên Xô (dưới dạng vốn bằng tiền mặt); xác nhận Hiệp định 1982 ký với các nước đồng minh về việc cấm mọi trợ cấp của bất kỳ chính phủ nào cho những khoản nợ của Liên Xô; hạn chế hơn nữa việc chuyển giao công nghệ bí mật cho các nước thuộc khối Xô Viết và hạn chế sự độc lập năng lượng của các nước phương Tây bằng cách xác nhận các hạn chế thiết lập ở trên đối với việc xuất khẩu khí gas của Liên Xô vào các nước Tây Âu.

5. Chấm dứt trợ giá cho việc bán ngũ cốc vào Liên Xô. Việc bán ngũ cốc của Mỹ cho Liên Xô từng bị chấm dứt sau khi Liên Xô can thiệp vào Afghanistan đã được Chính quyền Reagan phục hồi. Cho dù không nhất thiết phải ngăn cản đối với việc cung cấp thương mại ngũ cốc cho Liên Xô, song cần thấy rằng việc bán ngũ cốc vào nước này được thực hiện trong thời gian gần đây với giá thấp hơn giá Chính phủ Mỹ thu mua của các trang trại. Sự khác biệt thuộc về những người đóng thuế. Ví dụ, cứ 6 nghìn giạ (bushel - đơn vị đo lường Anh tương đương 36,3 lít. ND) hạt ngũ cốc bán cho Liên Xô, những người đóng thuế Mỹ phải bù 4722 USD, tương đương với mức thuế của một gia đình trung lưu Mỹ với 4 thành viên vào năm 1987.

Những hợp đồng dài hạn cho việc bán ngũ cốc đang ẩn chứa một nguy cơ hình thành một vùng kinh tế Mỹ lệ thuộc rất lớn vào những đơn đặt hàng thương mại từ phía Liên Xô. Việc bán ngũ cốc, nếu như nó vẫn được tiếp tục, cần được thực hiện không thông qua bất kỳ trung gian nào và không có sự trợ giá của Chính phủ Mỹ. Tổng thống mới đắc cử cần ra lệnh cho các vị bộ trưởng nông nghiệp và thương mại đưa ra những chỉ dẫn liên quan tới vấn đề: bằng cánh nào Mỹ có thể chấm dứt mọi sự trợ giá từ phía Chính phủ trong việc bán ngũ cốc cho Liên Xô.

6. Từ chối ký kết những hiệp định mới giữa Liên Xô và Mỹ trong lĩnh vực liên lạc, nếu Matxcơva không chấm dứt việc phá sóng phát thanh của các đài phương Tây. Việc Liên Xô phá sóng chương trình phát thanh của đài “Tự do” là vị phạm Biên bản kết luận mà họ đã ký tại Helsinhky. Washington đã nhiều lần phản đối song không có bất cứ kết quả nào. ủy ban liên bộ dự kiến về trao đổi Xô - Mỹ hoặc (nếu tổ chức sẽ không được hình thành) lãnh đạo Vụ những vấn đề quan hệ với Liên Xô và các nước Đông Âu trong bộ máy của Hội đồng An ninh quốc gia cần đưa ra những kiến nghị liên quan tới việc Hoa Kỳ phê chuẩn chống Liên Xô trong trường hợp họ tiếp tục phá sóng các chương trình của đài “Tự do”. Những phê chuẩn đó có thể bao gồm: hạn chế các chuyến thăm chính thức của đại diện Xô Viết vào Mỹ; từ chối cấp visa cho những tuyên truyền viên có tiếng của Liên Xô.

7. Thành lập một quỹ tiền tệ dự trữ để tài trợ cho công việc của đài phát thanh “châu Âu tự do”, và “Tự do”.
Phần “chính sách đối với các nước Đông Âu”

Kể từ khi đế chế Xô Viết tiếp thu các nước Trung và Đông Âu sau Chiến tranh thế giới II, chính sách của Mỹ đối với khu vực này đã thiên về những hành động đối phó. Trong suốt mười năm, công thức loại bỏ chủ nghĩa cộng sản, kể từ khi nó được hình thành, ngoài những lời hoa mỹ, vẫn chưa có được một khởi đầu hiệu quả nào. Tuy nhiên, bài học thu được từ kinh nghiệm vận dụng học thuyết của Reagan tại Grenada, tại Afghanistan và Nicaragua chứng tỏ về sự loại bỏ đó có thể đã có hiệu quả. Biến thể của chính sách đó được vận dụng vào trong quan hệ với các nước Trung và Đông Âu. Nhiệm vụ đặt ra là thúc đẩy những bất lợi dễ thấy đối với đại bộ phận dân chúng ở khu vực này.

Thành công từ sự hỗ trợ của Mỹ cho hoạt động bí mật ở Ba Lan chỉ ra rằng Mỹ có thể tác động một cách có chọn lọc tới quan điểm dân chủ ở các nước Trung và Đông Âu. Sự bất ổn ngày càng tăng cao ở khu vực này là kết quả của sự thay thế tất yếu các thế hệ, những khủng hoảng kinh tế và những tín hiệu hai mặt từ phía Matxcơva, đang có thể tạo ra những khả năng thuận lợi cho lực lượng dân chủ ở một hay một số nước.

Để giành được mục tiêu cuối cùng mà chính sách của Mỹ đang theo đuổi đối với các nước Trung và Đông Âu, - như quyền dân tộc tự quyết, điều hành dân chủ đối với nhân dân ở khu vực này, - chiến lược của Mỹ cần bao gồm 3 thành tố:

Một là, Mỹ cần thúc đẩy sự xuất hiện một xã hội công dân thiên tả về chính trị có khả năng thách thức một quốc gia độc đảng. Sự giúp đỡ của Mỹ cho phe dân chủ, bí mật cũng như công khai, đang là phương tiện thúc đẩy nhanh khả năng thách thức đó.

Hai là, Mỹ cần sử dụng thường xuyên những đòn bẩy về kinh tế và chính trị để gây áp lực lên đường lối đối nội của những chế độ ở các nước Trung và Đông Âu. Mỹ cần sử dụng một cách có phương pháp và rõ ràng thái độ của mình đối với các nước ở khu vực này để khích lệ quá trình tự do hóa nội bộ, một nền độc lập ngày càng lớn đối với Liên Xô và một cải cách kinh tế triệt để, đồng thời loại bỏ sự hồi sinh của chủ nghĩa Xtalin.

***

Chính sách “khu biệt hóa” đang thiết lập mối liên hệ giữa mức độ các mối quan hệ ngoại giao và kinh tế của Mỹ với các nước Trung và Đông Âu và sự thực thi của những nước này về quyền con người. Chính sách đó đã tạo điều kiện cho quá trình tự do hóa ở Hung Ga Ri và Ba Lan, như: mở rộng những phát biểu công khai, có thái độ thừa nhận sự đối lập về chính trị, việc truy sát những người chống đối đỡ gắt gao hơn. Trong quá trình thích nghi thận trọng với những điều kiện của từng nước trong khu vực này, Mỹ cần khích lệ tại Trung và Đông Âu những lực lượng tại chỗ đang đòi độc lập về chính trị, giảm thiểu vai trò của quốc gia trong nền kinh tế và thực hiện rộng rãi nguyên tắc quyền dân tộc tự quyết. Nên xác định các kết quả theo con đường mà mỗi nước cụ thể trong khu vực này đã trải qua để đạt được mục tiêu này của họ.

***

Những phương tiện liên lạc mới, đặc biệt là việc truyền trực tiếp qua vệ tinh dựa trên nguyên tắc truyền các tín hiệu phát thanh, truyền hình thông qua những vệ tinh quỹ đạo và không sử dụng những máy truyền phát trên mặt đất, đang bao trùm toàn bộ các nước Trung và Đông Âu. Khác với phát thanh và viễn thông thông thường, những tín hiệu được truyền qua liên lạc vệ tinh thực sự không thể bị phá sóng và nó là phương pháp hiệu quả nhất về mặt chi phí để phá vỡ sự độc quyền thông tin của chế độ cộng sản. Việc phát thanh qua vệ tinh có thể được áp dụng nhờ sự hỗ trợ của các an ten vệ tinh tương đối đơn giản. Ví dụ, tại Ba Lan, đây là biểu tượng mới của sự phồn vinh. Chúng ta cần xem xét một cách toàn diện việc phát triển công nghệ phát thanh trực tiếp qua vệ tinh. Đồng thời, chính quyền mới cần gây áp lực với Quốc hội để tăng tiền tài trợ cho việc áp dụng công nghệ liên lạc mới này.

Bằng cách này, “sự bùng nổ video” ở các nước Trung và Đông Âu, một trong những nguyên nhân của nó là khát vọng của dân chúng đối với văn hóa phương Tây, sẽ bảo đảm cho chúng ta có được kênh liên lạc tốt nhất với các dân tộc ở khu vực này. Chúng ta cần tăng cường số lượng và khả năng thâm nhập của các băng hình tại các đại sứ quán và các trung tâm văn hóa Mỹ.
chuongxedap:

Những sáng kiến cho năm 1989

...

2. Thiết lập cơ chế hỗ trợ các phong trào dân chủ ở các nước Trung và Đông Âu. Qua kinh nghiệm giúp đỡ hoạt động bí mật ở Ba Lan, chính quyền cần thiết lập hạ tầng cơ sở hỗ trợ các lực lượng giải phóng dân tộc và dân chủ ở khu vực này. Tổng thống cần thuyết phục Quốc hội về sự cần thiết tài trợ (bí mật và công khai) cho việc mua các sản phẩm như máy thu phát sóng cực ngắn, sơn, ấn phẩm báo chí, hoặc các thiết bị in ấn, đầu video. Đồng thời, Quỹ quốc gia hỗ trợ nền dân chủ cần bắt đầu làm rõ các khoản tài trợ công khai có thể chuyển đi (như ở Ba Lan là thông qua Viện Nghiên cứu công đoàn tự do của phân viện Liên đoàn Lao động Mỹ và Đại hội Công đoàn sản xuất).

Phần “Học thuyết giải phóng”

Học thuyết giải phóng là kế hoạch hành động có mục tiêu thách thức đế chế Xô Viết. Nó dựa trên những nguyên tắc và phương pháp của Ronald Reagan, nên được gọi là Học thuyết Reagan.

Đế chế Xô Viết đã dần được hình thành suốt mười năm qua, đồng thời các nhà lãnh đạo Xô Viết đã kiên trì và liên tục sử dụng mọi khả năng bành trướng.

Nếu nói một cách trừu tượng, đế chế Xô Viết được tổ chức theo các vùng tập trung từ Trung ương đến các vùng xa xôi khác biệt nhau về thời gian và vị trí địa lý. Những vùng nhỏ hơn bao gồm các quốc gia nằm gần với trung tâm quốc gia Nga và trong suốt một thời gian dài là một bộ phận của đế chế. Nếu xem xét đế chế Xô Viết dưới góc độ này, thì vùng đầu tiên thuộc về lãnh thổ sắc tộc giành được nền độc lập sau cuộc cách mạng của những người Bolxevich, nhưng sau đó bị Matxcơva chiếm đoạt, hiện nay như là Công hòa Armeni, cộng hòa Gruzi và Cộng hòa Ucraina.

Vùng thứ hai, bao gồm những quốc gia rơi vào sự kiểm soát của Matxcơva do hiệp ước liên bang mà Matxcơva ký với Hitle năm 1939 có: Estoni, Litva, Latvi và Moldova.

Vùng thứ ba của đế chế Xô Viết bao gồm các quốc gia bị Matxcơva chinh phục do Xtalin vi phạm Hiệp định Yaltai và Postdam và do phương Tây từ bỏ việc chống lại Xtalin, cũng như do kết quả của Cách mạng Cuba năm 1959. Vùng thứ ba này tạo thành hạt nhân đế chế Trung và Đông Âu của Matxcơva và bao gồm các quốc gia Bun Ga Ri, Tiệp Khác, Đông Đức, Hung Ga Ri, Ba Lan và Ru Ma Ni, cùng những phần chiếm được của Nhật Bản và Cuba.

Vùng thứ tư và là vùng xa trung tâm nhất, bao gồm các quốc gia bị cuốn vào đế chế Nga từ những năm 70. Việc Washington từ bỏ chính sách thế giới của mình đã trao cho Liên Xô một khả năng to lớn nhất để bành trướng sau những 1945 - 1948. Do xa xôi về địa lý và ý nghĩa đối với Matxcơva, vành đai thứ tư này đã trở thành vùng biên giới của đế chế. Đó là những quốc gia như Nam Iemen, Việt Nam, Mozambik, Angola, Lào, Cam-pu-chia, Etiopia, Nicaragua và Afghanistan. trong số những quốc gia này có cả Grenada, trước khi Quân đội Mỹ giải phóng nó vào tháng 10 năm 1983.

Cho dù một số thủ lĩnh Mỹ, đặc biệt là Bộ trưởng Ngoại giao John Foster Dalles trong chính quyền của Tổng thống D. Eisenhower (1890 - 1969, Tổng thống thứ 34 của Mỹ, giai đoạn 1953 - 1961. ND) đã đôi lúc kêu gọi loại trừ đế chế Xô Viết “ở tuyến đầu”, còn một số khác, đặt biệt là John Kenedy đã thực sự giúp đỡ những người đấu tranh để giải phóng đất nước họ khỏi sự thống trị cộng sản, Ronald Reagan vẫn là Tổng thống Mỹ đầu tiên trình bày một cách lô gic về sự cần thiết giúp đỡ từ phía Hoa Kỳ trên quy mô toàn thế giới cho mọi phong trào kháng chiến chống lại những chế độ cộng sản. Sự giúp đỡ này từ phía Mỹ được mang tên gọi là “Học thuyết Reagan”, cho dù chính Reagan không sử dụng thuật ngữ này. Nó được bắt nguồn từ Học thuyết Truman ở cuối những năm 40 để cứu Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp và các nước châu Âu khác thoát khỏi sự thống trị của Xô Viết.

Học thuyết giải phóng hiện nay tiếp tục và bổ sung thêm Học thuyết Reagan. Nó tạo niềm tin cho các nước nằm trong những vùng tập trung của đế chế Xô Viết. Những phương tiện hiện thực hóa học thuyết giải phóng và những mục tiêu gần của nó đối với các nước của mỗi vùng đó có khác nhau. Sự giúp đỡ mà Mỹ coi là hiện thực và thích hợp để ủng hộ những người đấu tranh vì tự do ở Afghanistan, Angola và Nicaragua, không thích hợp với Ba Lan, Latvi hoặc Armeni. Đối với mỗi vùng, Mỹ cần có một chính sách phù hợp.

Chính sách của Reagan đã làm thay đổi tính chất cuộc đấu tranh ở các nước thuộc thế giới thứ ba. Ngày nay, ở Afghanistan, Angola, Cam-pu-chia, Etiopia, Lào, Mozambik, Nicaragua và Việt Nam những người nổi dậy chống Xô Viết đang tiến hành một cuộc đấu tranh vũ trang chống lại những chế độ tàn ác đang dựa vào sự hỗ trợ quân sự của Liên Xô. Đó là sự thay đổi triệt để tính chất của những hoạt động đấu tranh du kích tại các nước thuộc thế giới thứ ba. Suốt ba thập kỷ sau Chiến tranh thế giới II, tính chất của những hoạt động đấu tranh do những người nổi dậy cộng sản chủ yếu lợi dụng sự hỗ trợ của Xô Viết xác định nhằm chống lại khuynh hướng thân phương Tây và qua kết quả thu được đó nhằm hình thành nên vùng thứ tư của đế chế.

Tuy nhiên, vùng thứ tư không phải là vùng duy nhất hiện nay đang thách thức sự thống trị của Xô Viết. Làn sóng bất bình đang bao trùm các thuộc địa Xô Viết tại cả Đông Âu. Do không công hận tính chất hợp pháp của những chế độ bị Matxcơva trói buộc, Những người sec đang đòi tự do tín ngưỡng, những người Hung Ga Ri đòi dân chủ, những người dân Đông Đức đòi quyền di trú, những sinh viên Ba Lan đòi những tự do mang tính kinh viện. Đó là những biểu hiện chống đối trong một bầu không khí vô định về chính trị. Sự thống trị của Xô Viết còn bị thách thức ngay tại vùng thứ hai và ba. Hàng trăm nghìn người tham gia tuần hành tại “các nước cộng hòa” Xô Viết Armeni và Azerdbaidzan để ủng hộ những yêu sách về lãnh thổ cũ. Những người Hồi giáo ở các nước cộng hòa Trung Á đang tiến hành biểu tình đòi tự do tín ngưỡng. Những người Estoni đã thành lập Mặt trận dân tộc tương tự như một đảng chính trị thứ hai.

Mục tiêu cuối cùng của học thuyết giải phóng cần được hiện diện trong quá trình xóa bỏ đế chế Xô Viết, mở ra trước hàng trăm triệu người một khả năng định chế dân tộc tự quyết. Bằng cách này, sẽ hiện thực hóa được hai ý định cơ bản - đó là trao quyền tự quyết cho các dân tộc này và củng cố nền an ninh của phương Tây.
chuongxedap:

***

Vào thời điểm Reagan lên nắm quyền, Mỹ đã từng ủng hộ phong trào kháng chiến của những người Modzahed ở Afghanistan. vào năm 1986, Mỹ đã từng hỗ trợ cho các phong trào kháng chiến vũ trang ở Afghanistan, Angola và Nicaragua. Dựa vào sự hỗ trợ này, bao gồm việc cung cấp các tên lửa phòng không và chống tăng hiện đại, các nhóm kháng chiến đã buộc đối phương có ưu thế trội hơn về trang bị phải chấm dứt những hoạt động quân sự.

Những người Modzahedin ở Afghanistan thậm chí đã buộc Matxcơva đưa ra tuyên bố về việc rút quân đội của mình ra khỏi Afghanistan. Đây là thất bại đầu tiên của Quân đội Xô Viết kể từ sau Chiến tranh thế giới II. Nếu Quân đội Xô Viết sẽ rút quân theo những thời hạn đã tuyên bố và một Afghanistan phi cộng sản ra đời, thì đó sẽ là một đòn quân sự và tâm lý đáng sợ đối với Matxcơva.

Hơn nữa, sau khi thành lập đài phát thanh “Radio Marti” theo kiểu của “Châu Âu tự do”, chính quyền Reagan đang kích động phe đối lập chính trị tại Cuba. Từ năm 1985, chính quyền đã thực hiện sự hỗ trợ tài chính bí mật cho Công đoàn “Đoàn kết” ở Ba Lan và các nhóm đối lập khác của Ba Lan, cũng như đã hỗ trợ dưới hình thức bí mật đưa vào Ba Lan những văn bản phê phán, kỹ thuật in - nhân bản, các thiết bị thu phát radio và các băng video.

Vấn đề cơ bản để thực hiện học thuyết giải phóng là các thành viên Quốc hội, CIA và những bộ ngành then chốt khác không muốn lợi dụng cơ hội đang mở ra nhờ các phong trào chống đối trên thế giới. Để khắc phục quan điểm này, Tổng thống mới được bầu cần lập ra một cơ quan hỗ trợ các phong trào chống đối có đủ thẩm quyền để thực thi học thuyết giải phóng...

Mỹ, trong khuôn khổ của học thuyết giải phóng, cần giúp đỡ những người nổi dậy chống Xô Viết đang tiến hành chống các chế độ ở Etiopia, Lào, Mozambik và Nicaragua.

Điều không kém phần quan trọng là chính quyền cần bắt đầu nghĩ tới khả năng sử dụng học thuyết giải phóng đối với các nước khác của đế chế Xô Viết, và nói riêng, đặt ra vấn đề làm cách nào để Mỹ có thể khích lệ tốt nhất cho những người đang đấu tranh đòi tự do chính trị tại các nước Đông Âu hoặc thậm chí ngay tại Liên Xô. Tự do hóa thực sự sẽ xói mòn đế chế Xô Viết. Chính quyền mới cần bác bỏ những yêu sách độc tài đối với tư tưởng mới trong lĩnh vực ủng hộ các lực lượng dân chủ. Giám đốc của cơ quan hỗ trợ cho các lực lượng này cần khích lệ tổ chức thống nhất của Liên đoàn Lao động Mỹ và Đại hội Công đoàn sản xuất, còn trong các cơ quan khác là Viện Thương mại Mỹ và Bộ giáo dục và Lao động nhằm tìm kiếm những con đường hỗ trợ các lực lượng dân chủ. Chẳng hạn như: tổ chức thống nhất của Liên đoàn Lao động Mỹ và Đại hội Công đoàn sản xuất có thể nhận lãnh một số vấn đề huấn luyện các thủ lĩnh đối lập của các nước đông Âu, còn Bộ Giáo dục - chuyển các bản thảo bàn về sự ưu việt của vấn đề tự quyết.

Đương nhiên, mức độ và tính chất hỗ trợ của Mỹ cho các phong trào đấu tranh ở vùng thứ tư của đế chế là không thể sử dụng cho các nước ở khu vực thứ hai và ba. Trong phạm vi thứ ba đối với những thuộc địa Xô Viết ở Đông Âu và Cuba, Mỹ cần tích cực hóa các chương trình nhằm khích lệ nền dân chủ, độc lập dân tộc và tin cậy lẫn nhau giữa các lực lượng vũ trang của các nước thành viên Hiệp ước Varsava. Theo thời gian, điều này sẽ dẫn đến việc Matxcơva sẽ bị vây chặt hơn, giống như điều đó đã xảy ra vào năm 1968 ở Tiệp Khắc - một trong những nước vệ tinh ở Đông Âu đã bị lung lay. Mỹ cần tạo điều kiện cải thiện mối liên lạc giữa những người chống đối ở các nước Đông Âu, bằng cách đó tạo nên khả năng để họ có kế hoạch và thực hiện những hành động phối hợp. Mỹ cần tích cực hóa những nỗ lực của mình để thiết lập các mối liên lạc với các nhà lãnh đạo các phong trào đối lập bí mật và công khai và khích lệ những phản ứng chống đối.

Chính phủ Mỹ cần chính thức yêu cầu Matxcơva tiếp tục giảm sự kiểm soát của Xô Viết đối với các nước Đông Âu. Chính quyền mới cần ra những tuyên bố ủng hộ những người bãi công và những người tham gia hành động phản đối ở các nước này đúng vào thời điểm Tổng thống gây áp lực đối với Matxcơva đòi họ cho phép các công đoàn độc lập, thực hiện những chuẩn mực chung trong lĩnh vực quyền con người và xây dựng xã hội dân chủ.

Những sự kiện diễn ra trong thời gian gần đây ở Liên Xô cho thấy nhiều nhóm dân tộc từng bị đế chế Xô Viết chinh phục đã không chịu chấp thuận số phận của mình một cách vĩnh viễn. Sự căng thẳng trong các mối quan hệ giữa Armeni và Azerbaidzan về những vấn đề yêu sách lãnh thổ cho thấy những gì đang diễn ra không chỉ đơn giản là sự tranh cãi giữa các tỉnh trong cùng một quốc gia (tương tự như cuộc đấu khẩu về vấn đề lãnh thổ giữa Idiana và Ohio ở Mỹ), mà còn là xung đột giữa những quốc gia khác nhau.

Tổng thống mới cần trao cho các cố vấn chủ chốt của mình soạn thảo một kế hoạch hành động thống nhất giữa Mỹ với những sự kiện quan trọng đang diễn ra ở Liên Xô. Kế hoạch như vậy cần sử dụng mọi phương tiện thích hợp trong khả năng của Mỹ để khích lệ dòng thông tin tự do đến với các phần tử dân tộc và mối liên lạc có hiệu quả giữa họ với nhau. Mục tiêu chủ yếu là cần khích lệ trào lưu ly tâm, tương tự như việc củng cố sự tự giác ngộ dân tộc độc lập.

Để làm suy yếu hơn nữa sự kiểm soát của Matxcơva, đài phát thanh “Tự do” cần mở rộng việc phát các chương trình của mình bằng tiếng của các dân tộc đang nằm trong vùng thứ nhất của đế chế. Những cá nhân và các đại diện chính thức cần chuyển vào các quốc gia bị áp bức này những văn bản bằng tiếng mẹ đẻ của họ vạch ra những khác biệt giữa dân tộc của những quốc gia này với dân tộc Nga.

Học thuyết giải phóng cũng cần được sử dụng tạo lợi thế hồi sinh tôn giáo trong lòng Liên Xô. Chính quyền cần tổ chức chuyển những cuốn Kinh thánh vào lãnh thổ Xô Viết, ít nhất đã được dịch sang 10 tiếng dân tộc khác nhau, để cung cấp cho các tín đồ ở Liên Xô những cuốn sách mà lâu nay họ còn thiếu.

Chính quyền mới cũng cần tìm kiếm những khả năng sử dụng lực lượng chính thống hồi giáo ở Kazakhstan, Kirghizi, Tadzikistan, Turkmeni và Uzbekistan. Điều này có thể được thực hiện bằng cách sử dụng những người Modzahad ở Afghanistan có kinh nghiệm để cung cấp hàng triệu bản Kinh Koran qua biên giới Afghanistan - Liên Xô. Những người đã từng buộc được Quân đội Xô Viết chấm dứt những hành động quân sự này có thể giúp dân chúng ở các nước cộng hòa Xô Viết trong việc tổ chức những phong trào chính trị bí mật.
chuongxedap:

Những sáng kiến cho năm 1989

1. Chính quyền mới, trong mối quan hệ hữu cơ với Quốc hội, cần thông qua đạo luật về việc giúp đỡ những người đấu tranh vì tự do nhằm xem xét việc thành lập cơ quan ủng hộ những phong trào kháng chiến dám nhận lãnh trách nhiệm thực hiện học thuyết giải phóng giữa các tổ chức quốc gia liên bang thích hợp; việc bổ nhiệm giám đốc cơ quan này do Tổng thống và được nghị viện chấp thuận, trong đó giám đốc phải là thành viên của Hội đồng An ninh quốc gia; phê chuẩn quỹ ủng hộ các phong trào kháng chiến ở mức 1 tỷ USD/năm, với số tiền này chính quyền đã có thể hỗ trợ được các phong trào kháng chiến. Không một điểm nào trong đạo luật này được hiểu như là sự cản trở việc mở rộng sự hỗ trợ công khai hay bí mật đối với bất kỳ phong trào kháng chiến nào...

Tại Đông Âu, chiến lược của Mỹ nhằm giành quyền tự quyết dân tộc và dân chủ cho các dân tộc ở khu vực cần bao gồm ba thành tố.
Một là, Mỹ cần giúp đỡ công khai và bí mật phe đối lập chông cộng dân chủ.

Hai là, Mỹ nên đặt sự phát triển các mối quan hệ của mình với các chế độ của Đông Âu tùy theo chính sách đối nội mà họ tiến hành. Hỗ trợ các nước này giành tự do hóa chính trị, độc lập với Liên Xô, phi tập trung hóa về kinh tế và chuyển sở hữu vào tay tư nhân. Đồng thời, chống trả và trừng phạt mọi sự tái lập chủ nghĩa Xtalin.

Cuối cùng, cần đặt Matxcơva vào những điều kiện để họ phải trả giá vì thường xuyên từ chối việc thỏa mãn quyền dân tộc tự quyết cho các dân tộc ở Đông Âu. Chính sách Xô Viết trong khu vực cần là nhân tố quyết định tác động vào quy mô hợp tác chính trị và kinh tế với phương Tây.

Phần “cộng đồng tình báo Mỹ”

Nhiệm vụ của cộng đồng tình báo Mỹ là đánh giá những khả năng, những điểm nhạy cảm và các dự tính của các nước khác, trước hết, của những nước được coi là đối thủ hiện thực hoặc tiềm năng. Trong mọi trường hợp, khi hành vi của các quốc gia khác là nguy cơ thực sự đối với nền an ninh quốc gia Mỹ, các chính sách của Mỹ thường cố gắng tác động vào chính sách của những nước này đều sử dụng các tin tình báo...

Những kiến thức đơn giản về điều có thể xảy ra, đương nhiên thường không đủ. Cần có thêm khả năng tác động tới các sự kiện, ngăn chặn nguy cơ đối với nền an ninh quốc gia Mỹ và bảo vệ những lợi ích của Mỹ. Một số biện pháp này được tiến hành công khai và là một bộ phận của các chiến dịch quân sự và ngoại giao thông thường của Mỹ. Nhưng do hàng loạt nguyên nhân, có một số biện pháp cần ưu tiên che dấu, hoặc, nói một cách khác, được tiến hành như những chiến dịch bí mật, trong đó sự liên can của Mỹ đối với chúng trở nên không thể nhận ra hoặc ít gây tranh cãi.

Những chiến dịch bí mật có thể bao gồm: cung cấp hỗ trợ quân sự và kinh tế; huấn luyện các nhân vật nước ngoài; ủng hộ các lực lượng đối lập và những phong trào giải phóng dân tộc ở nước ngoài; chống tuyên truyền thù địch,... Khi xét tới phạm vi nguy cơ đối với nền an ninh của Mỹ và sự phát triển như vũ bão của những sự kiện mất ổn định tại nhiều nước thuộc thế giới thứ ba, những chiến dịch bí mật vẫn đang là công cụ chủ yếu bảo vệ an ninh quốc gia của Mỹ. Trong mọi trường hợp, vai trò của chúng trong những năm gần đây càng được tăng cường và khuynh hướng này rõ ràng sẽ được tiếp tục...

Vì mục tiêu chủ yếu của các chiến dịch tình báo đối ngoại là tuyển mộ các điệp viên nước ngoài và làm việc với họ, Tổng thống mới cần khẳng định sự cần thiết phục hồi đoàn chuyên gia về ngôn ngữ và khu vực hiện đang bị yếu đi do thế hệ của Chiến tranh thế giới II đã lần lượt về hưu. Việc chuẩn bị ngôn ngữ và kiến thức về các vùng riêng biệt như vậy đặc biệt cần tới những nhà phân tích đang làm việc tại các cơ quan địa lý. Những kiến thức sâu sắc về bất cứ nước nào, cũng như về văn hóa của nó, đòi hỏi phải có một thời gian lưu trú nhất định tại nước đó, cũng như khả năng đọc và giải thích được bằng ngôn ngữ của nước đó.

Do các trường cao đẳng và đại học Mỹ không sẵn có một số lượng chuyên gia như vậy, các cơ quan dân sự và quân sự của Mỹ cần mở rộng chương trình đào tạo riêng, kể cả thời gian lưu trú của người học ở nước ngoài để thâm nhập hoàn toàn vào môi trường ngôn ngữ địa phương.

Những người được tuyển mộ không nên chỉ lấy từ số sinh viên tốt nghiệp cao đẳng. Mỹ là một quốc gia đa dân tộc có nhiều người rất có năng khiếu ngoại ngữ hoặc đã tinh thông ngoại ngữ. Từ trong cả một biển người này có thể tuyển chọn được một số lượng ứng cử viên đủ kinh nghiệm và đào tạo họ làm việc trong môi trường văn hóa nước ngoài, nơi mà mức độ kinh nghiệm được đánh giá cao hơn tính thanh niên.
chuongxedap:

Phụ lục N0 6.
Gắng sống, đừng gục ngã. Hãy đọc và chuyển đi

Phòng vệ xã hội là một giải pháp phi bạo lực của phòng thủ quân sự. yêu cầu của nó chủ yếu là trách nhiệm đối với phòng thủ đất nước không phải do chính phủ và quân đội, mà do chính những người dân thực hiện. Không một quốc gia nào trên thế giới muốn kéo dài tình trạng phòng vệ xã hội, bởi khi hình thái này được tiến hành trong đời sống xã hội thì cũng có nghĩa là khả năng đối kháng với sự trấn áp từ phía chính phủ trong dân chúng đã được tăng cường.

Sự ưu việt của phòng vệ xã hội là bạo lực chống lại dân chúng được ngăn chặn bằng những biện pháp phi bạo lực, mà chưa cần tới sự ủng hộ của dư luận thế giới. Trong những điều kiện như thế, liệu ai sẽ sử dụng bạo lực ở quy mô lớn. Sự hiện diện của lực lượng vũ trang thường trực thường được biện minh bởi lý do có mối đe dọa của “kẻ thù”. Nếu lực lượng quân sự có ý định lật đổ chính phủ, thì ai sẽ ngăn chặn họ? “Ai sẽ canh giữ chính những người canh gác?”.

Trong phòng vệ xã hội, vấn đề này không hề xảy ra bởi phòng vệ xã hội được thiết lập nên từ sự tham gia mang tính quần chúng của toàn thể nhân dân và nó không cần tới lực lượng quân sự chuyên nghiệp. Những biện pháp phi bạo lực được sử dụng để chống lại những kẻ xâm lược cũng có thể được sử dụng để chống lại lực lượng quân sự định chiếm chính quyền. Vì vậy, phòng vệ xã hội là một hình thức bảo vệ được coi là thích hợp nhất với lý tưởng tự do và dân chủ.

Phòng vệ xã hội bao gồm sự không phục tùng của quần chúng trong lĩnh vực chính trị, kinh tế và xã hội nhằm mục đích chống đối lại hành động xâm lược quân sự hoặc việc thanh trừng (trấn áp) chính trị.

Phòng vệ xã hội được hình thành trên nguyên tắc là không một chính phủ nào, chop dù là dân chủ hay độc tài quân sự, có thể tồn tại mà thiếu sự ủng hộ thụ động của đại đa số dân chúng.

Các phương thức phòng vệ xã hội

a) Các biện pháp tượng trưng:

- Tuyên bố (phát biểu, gửi thư, kiến nghị) chính thức;

- Dùng khẩu hiệu, truyền đơn, biểu ngữ;

- Tuần hành, tổ chức canh phòng (chống phá hoại bãi công);

- Mang mặc những biểu tượng thể hiện sự phản đối (Ví dụ như các công dân Na Uy đã cài ghim kẹp giấy để phản đối sự chiếm đóng của Đức phát xít).

b) Từ chối hợp tác:

- Tẩy chay về mặt xã hội, kiên quyết không ra khỏi nhà;

- Tẩy chay từ phía những người tiêu dùng, công nhân, những người buôn bán; cản trở hoạt động bình thường (Embargo);

- Bãi công, chỉ làm việc theo đúng định mức (không làm hơn định mức), cáo bệnh để nghỉ làm việc;

- Từ chối thực hiện thuế và các nghĩa vụ, rút hết tiền ra khỏi ngân hàng và quỹ tiết kiệm;

- Tẩy chay các công sở nhà nước;

- Không tuân lệnh, trì hoãn trong công việc;

- Tỏ ra thiếu năng lực (chậm chạp, vụng về, nhầm lẫn).

c) Can thiệp và cạnh tranh

- Ngăn cản phi bạo lực và chiếm giữ hòa bình một tòa nhà (khu vực) nào đó;

- Giả “thất lạc” các giấy tờ, tài liệu cần thiết;

- Lập ra những tổ chức phi chính thức song hành với sự điều hành của quốc gia, như: trong in ấn và đài phát thanh, giao thông vận tải, bảo hiểm xã hội, chăm sóc sức khỏe, giáo dục,...
Mọi người có thể tự làm được gì

Phòng vệ xã hội chủ yếu dựa trên một mạng lưới dày đặc sự hợp tác giữa dân chúng. Vì vậy, rất cần củng cố mối quan hệ xã hội này. Những mối quan hệ như thế có thể tồn tại trong các câu lạc bộ thể thao, cơ quan mẫu giáo, công đoàn. Điều này bao gồm các mối quan hệ hữu nghị giữa những người láng giềng, đồng nghiệp, sinh viên. Tất cả những mối quan hệ này vô cùng quan trọng trong bất kỳ một chiến dịch phòng vệ xã hội hiệu quả nào. Những mối quan hệ đó khích lệ mọi người chống đối lại đội quân chiếm đóng hay một cuộc đảo chính quân sự và là cội nguồn của những tư tưởng mới. Trong bất kỳ biện pháp xã hội nào, cần hành động mang tính hợp tác và phải biết rằng có hàng nghìn người cũng đang hành động như vậy - ví dụ như trong một cuộc tổng bãi công nhằm cản trở lực lượng chiếm đóng. Khả năng hành động nhất trí này chỉ có thể có được trong những mối quan hệ phát triển tốt đẹp.

Các cộng đồng ở địa phương

Khởi đầu là trên các đường phố, sau đó là ở các vùng trung tâm, những người láng giềng có thể lập kế hoạch chống đối. Có rất nhiều phương pháp chống đối khác nhau. Có thể làm đảo lộn hoặc tháo gỡ các biển báo giao thông như người Sec đã từng làm để chống đối sự chiếm đóng của Xô Viết vào năm 1968. Cách thức này, đối với dân chúng địa phương thì không thành vấn đề, song sẽ làm quân chiếm đóng mất phương hướng.

Những người dân địa phương có thể trò chuyện với binh lính của quân đội chiếm đóng để làm quen với họ. Cách thức viết khẩu hiệu lên tường có thể được sử dụng để tuyên truyền hành vi phi bạo lực và hợp tác trong chống đối. Có thể sử dụng các máy chữ, máy in và những đài phát thanh nghiệp dư vào hoạt động chống đối.

Công nhân của các nhà máy, xí nghiệp

Những công nhân của các nhà máy, xí nghiệp có thể từ chối giao nộp các thành phẩm lao động của mình, nếu họ hiểu rõ quy trinh công nghiệp và, khi cần thiết có thể làm ngừng quy trình đó. Những biện pháp được đưa ra sử dụng phải tùy theo tình hình cụ thể. Nếu, ví dụ đang có một cuộc tổng bãi công diễn ra, thì những người công nhân phải biết cách làm cho nhà máy, xí nghiệp ngừng hoạt động so cho những người lạ không thể vận hành được. Trong quá trình đấu tranh rất lâu dài, những công nhân sản xuất hàng hóa tiêu dùng vẫn có thể tiếp tục xuất xưởng những sản phẩm của họ. Những công nhân trong dây chuyền sản xuất vũ khí, nhiên liệu và những lĩnh vực công nghiệp khác có tầm quan trọng đối với đội quân chiếm đóng hay đối với cuộc trấn áp của chính phủ, cần phải tùy theo khả năng mà phá hoại quy trình sản xuất tại những nhà máy, xí nghiệp này.

Iohan Galltung nói rằng, để sự chống đối có hiệu quả nhất, quá trình sản xuất tại các nhà máy phải dựa vào một số lượng không lớn những thành tố bình thường nhưng rất quan trọng, nếu chúng bị tháo gỡ hoặc phá hoại thì không thể thay thế ngay được. Có thể lưu giữ các phiên bản của những thành tố đó ở nơi an toàn, thậm chí ở một nước khác. Kẻ xâm lược không thể vận hành nhà máy cho dù chúng sử dụng tới bạo lực hay cố gắng hết sức.
chuongxedap:

Những người công nhân có thể:

a) Biết cách phá hoại ngầm quá trình sản xuất cũng như cách làm ngừng trệ nó bằng cách gây ra những hư hỏng nhỏ nhất trong nhà máy;

b) Biết cách thay đổi nhanh nhất những phương thức sản xuất để tạo ra sản phẩm có lợi hơn cho xã hội;

c) Lên kế hoạch hệ thống liên lạc và phương thức ra quyết định trong giới công nhân và giữa những người công nhân với các nhóm người khác;

d) Tiến hành “thử nghiệm” những phương pháp thay đổi quá trình sản xuất hoặc phá hoại nó;

e) Chia sẻ kinh nghiệm với những công nhân khác và với dân chúng.

Những người lập trình và nhân viên máy tính

Máy tính cực kỳ quan trọng trong nhiều lĩnh vực của xã hội công nghiệp hiện đại, kể cả trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, trong hệ thống liên lạc, trong kế hoạch quân sự và trong công việc của các công sở nhà nước. Do đó, những người làm việc với máy tính rất dễ dàng chống đối lại bất cứ một nhóm nào định chiếm đoạt chính quyền.

Những nhân viên này có một vị trí đặc biệt thuận lợi, bởi những kẻ lạ không thể dễ dàng thay thế họ; thậm chí khi áp dụng sức mạnh cưỡng bức, kẻ xâm lược vẫn không thể bảo đảm rằng “không có sai, lỗi” trong hệ thống máy tính, rằng số liệu được cung cấp là đúng như chúng mong muốn.

Để chuẩn bị chống đối có hiệu quả, các nhân viên và lập trình viên máy tính có thể:

a) Biết cách bí mật làm ngừng hoặc gây lỗi điều hành của các máy tính;

b) Soạn ra những chương trình thế chỗ hoặc tạo ra những thay đổi không thể nhận biết trong những chương trình đang sử dụng để có thể sử dụng trong trường hợp thật cần thiết;

c) Liên hệ hành động với những nhân viên và lập trình viên đồng cảm;

d) Tiến hành “thử nghiệm” những phương pháp phá hoại hệ thống hay thay đổi điều hành máy tính;

e) Thông báo thông tin về những phương pháp chống đối đó cho những người khác cùng trong lĩnh vực kỹ thuật máy tính và cho đông đảo dân chúng.
chuongxedap:

Những ví dụ khác

Có thể lên kế hoạch chi tiết về những phản ứng khả năng đối với sự xâm lược trong từng nhóm xã hội khác nhau như đã trình bày ở trên. Sau đây là một số ví dụ:

a) Các nhân viên nhà nước có thể tiêu hủy hoặc làm “thất lạc” hồ sơ của những người chống đối (dissident) và của những người khác để họ không nằm trong đối tượng điều tra của các tổ chức an ninh;

b) Thư ký ở các công sở và các nhân viên văn thư có thể “tình cờ” chuyển những thông tin quan trọng cho nhóm người đối lập;

c) Những người đồng cảm trong lực lượng vũ trang có thể cảnh báo cho các thành viên của phong trào chống đối về các chiến dịch, hành động sắp diễn ra; họ có thể gieo rắc sự nghi ngờ trong quân đội và từ chối thực hiện những mệnh lệnh hoặc “hiểu sai” những mệnh lệnh đó.

d) Bất cứ công việc nào do bọn xâm lược yêu cầu, đều có thể bị “trì hoãn” hoặc “không hiểu rõ”. Đây là phương pháp đấu tranh tốt nhất đối với bất kỳ chính phủ nào, vì rất khó phân biệt giữa năng lực hạn chế thực sự hay giả vờ.

Cần làm gì trong trường hợp bị trấn áp quyết liệt

Phòng vệ dân sự có thể là biện pháp tin cậy để chống đối quân xâm lược và biện pháp là cần thiết từ phía “thái độ xã hội” như vẫn thường xảy ra ở phần lớn các nước dân chủ. Nhưng liệu nó có hiệu quả thực sự đối với những kẻ xâm lược tàn ác? Rất có thể nó chỉ hiệu quả trong chống lại những vụ trấn áp dưới chế độ độc tài của Hít le và Xtalin?

Sự chống đối phi bạo lực đối với quân đội chiếm đóng phát xít đã từng có hiệu quả ở Hà Lan, Đan Mạch và Na Uy trong thế giới chiến tranh thế giới II. Ví dụ, chế độ phát xít của Widkun Quisling1 có ý định đưa học thuyết phát xít vào sách giáo khoa phổ thông. Các giáo viên đã công khai từ chối việc đó: nhiều người đã bị bắt giam và bị đưa vào trại tập trung. Nhưng họ vẫn tiếp tục phản đối, và cuối cùng Chính phủ Quisling, do không muốn nhân dân Na Uy mang lòng hận thù đối với chế độ, phải trả tự do cho những người đã bị bắt. Các trường học không bao giờ phải tuyên truyền chủ nghĩa phát xít.

Thậm chí ngay tại nước Đức phát xít, sự chống đối phi bạo lực đã từng có hiệu quả trong một số trường hợp. Vào năm 1943, tại Berlin, hàng nghìn người vợ của những người Do Thái bị bắt giam (cả những phụ nữ không có nguồn gốc Do Thái) đã biểu tình trước các nhà tù. Cuối cùng, những người bị bắt đã được thả tự do.

Ngay cả chính quyền độc tài nhất cũng cần tới sự ủng hộ thụ động hoặc không chống đối của đại bộ phận dân chúng. Chưa có một chính phủ nào trong lịch sử đủ mạnh tới mức có thể tồn tại mà thiếu sự đồng lòng (cho dù là câm lặng) của chính dân chúng.

Nếu chính phủ duy trì một đường lối không hợp lòng dân và có ý định đàn áp bằng bạo lực đối với phe đối lập, thì sự trấn áp đó sẽ dẫn đến việc ngày càng có nhiều người chống đối lại chính phủ.

Phòng vệ dân sự thực sự có thể là biện pháp có hiệu quả chống lại sự trấn áp quyết liệt. Tuy nhiên, khi gặp sự trấn áp tàn bạo cần đặc biệt thận trọng lựa chọn những biện pháp và sách lược chống đối. Trong những trường hợp như thế, “những lỗi” không thể nhận biết trong thực hiện công vụ và “giải thích không đúng” các mệnh lệnh tỏ ra lợi hại hơn cả. Khi sự chống đối có được sự ủng hộ rộng rãi nó sẽ trở thành phong trào công khai không tuân lệnh.
____________________________________
1. 1887 - 1945, thủ lĩnh đảng phát xít ở Na Uy. ND
chuongxedap:

Phụ lục N0 7.
Những kế hoạch của Mỹ. Cục Tình báo Trung ương.
Phòng phân tích những vấn đề Xô Viết.
Ngày 25 tháng 4 năm 1991

“Bao vây Xô Viết”1

1. Cuộc khủng hoảng kinh tế, những nguyện vọng về nền độc lập và các lực lượng chống cộng sản đang phá hoại đế chế Xô Viết và hệ thống chính quyền:

- Boris Elxin đã trở thành kẻ thù số 1 của trật tự cũ và có những viễn cảnh tốt để trở thành nhà lãnh đạo đầu tiên được toàn dân bầu ra trong lịch sử nước Nga có được tính chính thống nhờ quyền ủy trị đó;

- Tại Ucraina, nước cộng hòa lớn thứ hai với 50 triệu dân, đang đẩy mạnh phong trào theo hướng có chủ quyền;

- Các chính quyền Belorus đã công nhận và bắt đầu đàm phán ủy ban đình công, những người đang chống lại sự cai trị của đảng cộng sản, cũng như của Kremli.

- Các nước cộng hòa vùng Baltik đang sử dụng sự im lặng cảnh cáo trong các mối quan hệ với Kremli để củng cố những định chế mới và mở rộng sự ủng hộ từ phía những người dân ngụ cư, mà trước hết là người Nga, để đòi độc lập;

- Gruzi đã tuyên bố nền độc lập của mình, tất cả các nước cộng hòa còn lại đang ủng hộ việc trao quyền cao hơn cho chính quyền địa phương;

- Những người thợ mỏ đình công đang bảo vệ những yêu sách của họ về sở hữu kinh tế, cũng như những thay đổi về chính trị và cơ cấu kinh tế. Lời kêu gọi của họ đang nhận được sự hưởng ứng trong các lĩnh vực công nghiệp khác;

- Nền kinh tế kế hoạch - tập trung đã bị tan rã hoàn toàn và được thay thế bằng một hệ thống những hợp đồng đổi chác (berter) ở cấp địa phương và nước cộng hòa, tương tự như một thị trường sơ khai, chưa thể xếp vào một hệ thống rõ ràng;

- Việc Trung ương nhiều lần cam kết kiểm soát đối với truyền hình quốc gia Trung ương đã không ngăn được sự ra đời của các hãng phát thanh - truyền hình mới và gần 800 tờ báo độc lập mới chuyên đi sâu vào chi tiết của các tin tức;

- Đảng Cộng sản Liên Xô đang bị tan rã về mặt quy mô khu vực cũng như về tư tưởng. Các lực lượng ở tình trạng phôi thai đang phát triển một hệ thống các đảng mới.

2. Nằm ở trung tâm của sự hỗn loạn đó, Gorbachov từ một nhà cải cách đầy nhiệt huyết đã biến thành kẻ có vị trí vững chắc. Những lời tuyên bố công khai chứng tỏ rằng Gorbachov đã lựa chọn đường lối đó để củng cố vị thế chính trị của riêng mình, và cũng do áp lực đối với ông ta từ phía những người nệ cổ (tradisionalist) muốn ông ta áp dụng những biện pháp kiên quyết hơn. ý định của ông ta nhằm duy trì sự tồn tại của liên bang được điều hành từ Trung ương, sự lãnh đạo của đảng cộng sản và nền kinh tế kế hoạch - tập trung đã đẩy ông ta tới những mánh khóe sách lược không thể giải quyết giải quyết được những vấn đề cơ bản và đang cản trở (mà không thể ngăn chặn được) việc hình thành một hệ thống mới;

Cuộc trưng cầu dân ý toàn liên bang không gây nên một ảnh hưởng nào tới việc đàm phán về một hiệp ước liên bang mới;

Một chương trình chống khủng hoảng vừa được công bố có nội dung không hơn gì một trong những kế hoạch kinh tế của chính phủ và giống như của những người tiền nhiệm nó chứa đầy những hứa hẹn cải tổ nhằm đi đến một sự ổn định không thể có;

Trong những nỗ lực gây ảnh hưởng thống trị đối với công việc của Xô Viết Tối cao Liên Xô, Gorbachov đã thổi phồng tổ chức này, sau khi biến nó thành một nhóm gồm nhiều thành viên đa dân tộc. Quá trình đó đã phá vỡ vai trò của định chế xã hội này - một tổ chức theo ý định ban đầu đã được công nhận là nhằm thống nhất các đại biểu của liên bang và các nước cộng hòa, - biến nó thành một diễn đàn để tranh luận.

Hậu quả từ những thất bại và trò lắt léo chính trị của Gorbachov đã làm uy tín của ông ta sụt giảm tới mức bằng không. Thậm chí cả những người thân cận với ông ta, những cộng sự truyền thống được lựa chọn cũng đang xa rời ông ta.
_________________________________
1. Bản báo cáo đã bị CIA kiểm duyệt trong khi công bố theo điểm B1 và B2 của Đạo luật Mỹ về Tự do thông tin. Hồ sơ lưu trữ của Hội đồng An ninh quốc gia Mỹ. Những dự báo của CIA về Liên Xô.
chuongxedap:

3. Gorbachov thực sự đối mặt với sự lựa chọn bi kịch trong những nỗ lực của mình nhằm đưa Liên Xô ra khỏi khuôn khổ của hệ thống hủ lậu, kiệt quệ, cũ kỹ. Rõ ràng là các mánh khóe đã giúp cho ông ta duy trì được quyền lực và đã làm thay đổi hệ thống này đến mức không thể đảo ngược lại, song chúng cũng đồng thời kéo dài và làm trầm trọng thêm cơn hấp hối khi chuyển qua hệ thống mới, và là một thế bí chính trị trong so sánh lực lượng:

- Nền kinh tế đã rơi vào vòng xoáy không lối thoát và chỉ có sự may mắn của hoàn cảnh mới có khả năng chấm dứt sự suy giảm GDP xuống còn hai con số;

- Lạm phát của năm qua là 20% và nó sẽ tăng gấp đôi;

- Thói quen giải quyết các vấn đề theo nguyên tắc “trên - dưới“, đặc biệt là đối với các nước cộng hòa, đã làm nảy sinh một cuộc chiến tranh luật pháp giữa các cấp chính quyền và tạo ra thêm một tình trạng bát nháo về pháp luật bên cạnh tình trạng bát nháo về kinh tế.

4. Trong tình hình hỗn loạn đang gia tăng như thế, khả năng bùng nổ của các sự kiện đã tăng lên đáng kể:

- Sự bất mãn xã hội bởi điều kiện kinh tế cuộc sống bị giảm sút có khả năng dẫn tới những xung đột lộn xộn quy mô lớn, đặc biệt là trong tình hình suy thoái trong thời gian gần đây ở các trung tâm công nghiệp của các nước cộng hòa có đông người lao động;

- Thủ đoạn bất thành của các chính quyền Trung ương,cung cách phản ứng bằng bạo lực hồi tháng 1 ở Vinhius có thể gây nên những phản ứng kích động mới của các lực lượng chống chính phủ, những lực lượng có khả năng lôi kéo được sự cảm tình của phương Tây về phía mình;

- Gorbachov, Elxin và những nhân vật nổi tiếng khác (nhưng không phải là tất cả) có thể chết vì làm việc căng thẳng quá mức hoặc bị sát hại, điều đó có khả năng gây nên những hậu quả không thể lường trước;

- ở đâu đó có thể sẽ xuất hiện một, thậm chí một số thủ lĩnh mới có ảnh hưởng, tương tự như đã từng xảy ra như Walensa ở Ba Lan, hay Landsbeghis ở Lítva, và họ sẽ bắt đầu làm ra lịch sử;

- Những lãnh tụ đối lập, trong liên minh với Gorbachov, hoặc không có ông ta, có thể đi tới kết luận rằng họ chỉ còn một cơ hội cuối cùng và họ sẽ bắt đầu hành động dưới ngọn cờ bảo vệ pháp luật và trật tự pháp luật.

5. Trong tất cả những phương án có thể phát triển sự bùng nổ của các sự kiện, đặc biệt nguy hiểm là ý định phục hồi một nền độc tài công khai, hoặc điều này đi kèm với khuynh hướng bác bỏ những tự do vừa giành được và tình hình mất ổn định tất yếu kéo dài. Điều đáng tiếc là việc chuẩn bị tiến hành sự cai trị độc tài đã được bắt đầu theo hai hướng:
     
     1- Gorbachov có thể không muốn các sự kiện sự đó đảo ngược như vậy, nhưng bản thân ông ta lại đang tăng cường những cơ hội cho quyền lực cá nhân của mình bằng cách xa lánh những nhà cải cách, đồng thời tìm kiếm chỗ dựa từ những người nệ cổ, bằng cách điều hành thông qua các sắc lệnh, nhưng lại phủ nhận tư duy về việc sử dụng chế độ độc tài để hiện thực hóa các ý định của mình.
     
     2- Điều nguy hiểm nhất là giới lãnh đạo cao cấp của quân đội, Bộ Nội vụ và KGB đang tiến hành việc chuẩn bị sử dụng rộng rãi sức mạnh trong đời sống chính trị:

               a) Những bài viết, bài phát biểu và những lời tuyên bố của nhiều nhà lãnh đạo trong số này đang hình thành nên cơ sở tâm lý cho xu hướng đó. Kriuchcov đã lên án sự can thiệp của nước ngoài và khẳng định rằng trong nhiều trường hợp, sự ủng hộ của các quân nhân là cần thiết để khôi phục trật tự trong nước. Akhromeiev đòi phải có bàn tay mạnh mẽ. Iazov ra chỉ thị cho phép trong trường hợp cần thiết được sử dụng vũ khí để bảo vệ các tượng đài và những công trình quân sự; Tuy công nhận rằng viên chỉ huy đơn vị đồn trú Vinhius đã có hành động không thích hợp, song ông ta đã bác bỏ việc người chỉ huy đó phải chịu trách nhiệm về việc sát hại những công dân vô tội. Varennicov, Tư lệnh Bộ đội Lục quân, tại phiên họp của Xô Viết Tối cao đã yêu cầu về việc phải có một chính sách cứng rắn hơn đối với những nước cộng hòa vùng Baltik, còn rất nhiều người chỉ huy quân đội đã gửi kiến nghị cho Gorbachov về những biện pháp biện pháp cứng rắn đồng thời yêu cầu được sử dụng những biện pháp đó đối với các cuộc mít tinh.

               b) Đảng cộng sản, với sự phê chuẩn của Gorbachov, đang làm tất cả những gì có thể để duy trì vai trò chủ đạo của mình trong lực lượng vũ trang, chấn chỉnh bộ mặt của mình trong việc duy trì các cơ cấu của Tổng cục Chính trị. Tiến hành các đại hội đảng ở cấp toàn quân và cấp thấp hơn nhằm thể chế hóa những cơ chế mới, đồng thời tuyên truyền tư tưởng bảo vệ thể chế Liên bang điều hành từ Trung ương bằng mọi giá.

Một chiến dịch cho về hưu và thay thế tối đa những sĩ quan chủ chốt có tư tưởng dân chủ được tiến hành...

Tại Matxcơva, ngày 28 tháng 3, khoảng 550 nghìn binh lính và sĩ quan quân đội và lực lượng nội vụ, với sự tham gia của KGB, đã được triển khai một cách chính xác và có tổ chức. Điều này chứng tỏ rằng cơ cấu chỉ huy để tiến hành những chiến dịch như thế đã được hình thành.

Rất có thể chính những động thái chuẩn bị về tổ chức và tâm lý để sử dụng bạo lực như thế đã buộc Sevardnadze phải đề phòng về “một nền độc tài tương lai”.
6. Những kẻ phản động dù sao cũng sẽ hành động, cho dù có hay không có Gorbachov. Đích ngắm đầu tiên của họ lần này sẽ là Boris Elxin và những người dân chủ Nga;

- Elxin, thủ lĩnh duy nhất được quần chúng cảm tình và được nước cộng hòa của ông ta, đặc biệt là Ucraina, ủng hộ;

- Ông ta dần dần và hết sức khó khăn đẩy phong trào Nga đến chế độ tự trị;

- Những người mong muốn duy trì một Liên bang được điều hành từ Trung ương đều hiểu rằng họ sẽ không đạt được điều đó nếu để nước Nga tuột khỏi sự kiểm soát của mình.

Mọi ý đồ khôi phục chế độ độc tài công khai sẽ được bắt đầu ở Matxcơva bằng việc bắt giam hoặc thủ tiêu Elxin và các thủ lĩnh dân chủ khác, như ngài Thị trưởng Popov và vị phó của ông ta là Xtankevich, bằng việc chiếm giữ tất cả các phương tiện thông tin đại chúng... ủy ban cứu nguy dân tộc (hoặc nó có thể mang một cái tên khác ít nhơ nhuốc hơn) sẽ được thành lập và tuyên bố ý định cứu Tổ quốc bằng những biện pháp kiên quyết, nhưng tạm thời mở đường cho dân chủ và những cải cách kinh tế.

8. Viễn cảnh lâu dài của hành động này không lớn, thậm chí một thành công trước mắt cũng chưa được bảo đảm;

Số lượng những đơn vị quân đội mà họ có thể dựa vào để tiến hành trấn áp là rất hạn chế;

Nếu các nhà dân chủ sẽ không chịu lùi bước, mà điều này hoàn toàn có thể tin chắc, thì sẽ rất khó duy trì được sự đoàn kết của những người tham gia thực hiện bạo lực;

Mọi hành động chống Elxin sẽ là ngọn lửa thúc đẩy những hành động ở những nơi khác, đến khi đó lực lượng an ninh quốc gia và quân đội sẽ phải căng ra để thiết lập sự kiểm soát đối với các thành phố khác ở Nga.

Thậm chí, nếu cuộc bạo động ở Nga thành công, một loạt các nước cộng hòa khác sẽ lợi dụng tình trạng lộn xộn đó vào những mục đích của họ. Nếu cuộc bạo động đó không thất bại ngay lập tức thì ý định trước đó nhằm khôi phục chế độ độc đoán cũng sẽ phải chịu thất bại sau một vài năm nữa. Đối với các thủ lĩnh của nó, không thể có một chương trình nào mang tính xây dựng, hơn nữa, họ sẽ không có tiềm lực kinh tế cũng như đối sách chính trị cần thiết để thiết lập nền độc tài. Chắc là kinh nghiệm thực thi tình trạng quân quản ở Ba Lan sẽ được lặp lại với thành tố bổ sung ở cấp độ các nước cộng hòa, song hầu như chắc chắn sẽ rất đẫm máu và tổn thất lớn về kinh tế.

10. Thậm chí, cuộc bạo động chắc là sẽ không thể ngăn chặn được lực lượng đa nguyên lên cầm quyền vào cuối thập kỷ này. Những lực lượng đó sẽ tấn công trung tâm và củng cố chính quyền khu vực, trong khi đó lực lượng của những người nệ cổ (tradisionalist), hiện đang kiểm soát chính phủ và các cơ quan Trung ương, sẽ ngày càng giảm sút vị thế của mình do chúng không còn sức sống để tồn tại trong tương lai của chương trình...
chuongxedap:

11. Quá trình từng bước này của lực lượng đa nguyên, trong vài năm tới sẽ đặt họ trước một nguy cơ của bạo loạn và sự thất vọng của công chúng vì khả năng giành được những cải thiện nhanh chóng. Hiểu rõ điều này, họ rõ ràng cần nỗ lực tấn công để giành được sự đột phá, trước hết là trong việc ký kết hiệp ước liên bang trao cho các nước cộng hòa một tiếng nói có trọng lượng trong hoạch định đường lối của Trung ương. Rất có thể, họ sẽ đạt được điều này. Thậm chí, Gorbachov rút cuộc không bị mất đi vị trí của mình trong sự nghiệp của họ. Khi phải đối mặt với sự lựa chọn: bỏ qua hoàn toàn và không quay lại hệ thống của những người nệ cổ đang căm thù nó và không chia sẻ những định kiến của nó chống lại việc sử dụng lực lượng công khai, hoặc lại gắn mình vào với những nhà cải cách, thì họ dù sao vẫn chọn con đường thứ hai. Bất chấp mọi chính sách trấn áp, chính quyền Trung ương vào chính lúc đó sẽ chấp nhận hoặc thậm chí còn đề xướng một số biện pháp có thể tạo ra cơ sở cho những nỗ lực cải cách, như:

- Thông qua một loạt đạo luật cần thiết để cải cách hệ thống thị trường;

- Viên cán sự của Gorbachov là Sakhnazarov cùng với Elxin bàn về ý định tiến hành “bàn tròn” toàn dân, cho dù những mục tiêu mà mỗi bên đưa ra rất khác nhau;

- Chính phủ liên bang và Chính phủ Nga bằng cách này hay cách khác, cho dù là rất chậm chạp, sẽ hình thành một cơ chế điều hòa những bất đồng và phân chia trách nhiệm về mối quan hệ với lực lượng vũ trang và KGB, trước hết là thông qua viên Thượng tướng Kobetx đứng đầu ủy ban về Quốc phòng và An ninh.

Tương tự như vậy, một ban công tác thống nhất của các bộ trưởng ngoại giao các nước cộng hòa với sự chủ trì của Bộ trưởng Ngoại giao Liên Xô: - Tiến hành đàm phán với các nước cộng hòa vùng Baltik, cho dù sẽ rất phức tạp và rất khác nhau trong những mục tiêu cuối cùng của mỗi bên.

Cho tới nay, những phản ứng khác nhau chưa mang ý nghĩa chiến dịch và sẽ không có ý nghĩa chiến dịch, nếu chính quyền Trung ương vẫn kiên trì những định hướng chính sách hiện nay của họ. Nhưng nếu họ thể hiện ý định thay đổi đường lối chính trị, những phản ứng đó sẽ tạo ra tiềm năng để thoát khỏi bế tắc hiện nay.

12. Các nhà cải cách chắc là sẽ không chấp nhận một tiến trình như thế, để sau đó thử giành một sự đột phá về mặt chiến lược. Cho dù có hay không có Gorbachov, có hay không có cuộc bạo động - sự biến dạng của Liên Xô tại một số quốc gia độc lập và trong liên minh của những quốc gia còn lại, bao gồm cả Nga sẽ là một viễn cảnh khá chắc chắn của cuối thập kỷ, nếu như không thể sớm hơn. Liên minh đó sẽ có những quy mô, tiềm lực kinh tế và tiềm năng sản xuất đủ để vẫn còn là một cường quốc quân sự hàng đầu, nhưng việc phi tập trung hóa cơ cấu sẽ kiềm chế khả năng khôi phục chính sách quân phiệt và hiếu chiến trước đây của nó.

13. Tình hình vừa qua ở Liên Xô và sự đa dạng trong sự tiến hóa gần đây của nó đang đặt chúng ta trước những phương án có thể phát triển của các sự kiện trong năm tới:

     a) Duy trì tình thế bế tắc hiện nay cũng đồng nghĩa với việc đặt phương Tây vào thế tiến thoái lưỡng nan nhằm cân bằng tối ưu những lực lượng chống đối khác nhau. Thế lưỡng nan này có thể trở nên sâu sắc hơn do cuộc đấu tranh ngày càng tăng cao và nền kinh tế bị rơi vào vòng xoáy. Những vụ xung đột xã hội tương tự như cuộc đình công của những người thợ mỏ và sự bùng nổ tham vọng ở Belorus bất cứ lúc nào cũng có thể đẩy tình hình vào hướng bạo lực công khai hoặc quân quản. Thậm chí, nếu sự việc không đi tới mức đó, thì nền kinh tế của Liên Xô vẫn ngày càng trở nên sa sút hơn, còn Gorbachov thì tăng cường cầu cứu phương Tây. Mặc dù Liên Xô vẫn có thể cố gắng áp dụng những sáng kiến quốc tế mới nào đó, ví dụ cho vùng Cận đông và trong lĩnh vực kiểm soát trang bị, thì sự phát triển của những bất ổn nội bộ vẫn làm giảm sút đáng kể tới ảnh hưởng ngoại giao của họ, và rõ ràng, sẽ cản trở tính hiệu quả của những sáng kiến đó. Sự phát triển tình hình bất ổn trong nước sẽ gây nên hiệu ứng tiêu cực ở Đông Âu dưới dạng xóa bỏ những hợp tác về kinh tế và không còn khả năng hình thành nên một nền tảng mới trong quan hệ Liên Xô - Đông Âu;

     b) Ý đồ phục hồi nền độc tài, đối với phương Tây cũng có nghĩa là lặp lại những sự kiện ở Ba Lan năm 1981, nhưng rõ ràng là sẽ tàn khốc và đẫm máu hơn. Như trước đây, đất nước vẫn sẽ trong tình trạng què quặt về kinh tế. Chế độ mới sẽ bảo đảm duy trì sự hợp tác với thế giới còn lại và chắc là sẽ rút bỏ quân đội ra khỏi Đông Âu. Trên thực tế, đường lối đối ngoại sẽ trở nên hiếu chiến hơn, nhưng một Liên Xô như thế sẽ không thể khôi phục lại ảnh hưởng toàn cầu trước đây của mình, cũng như vị trí của nó trong “thế giới thứ ba”. Rất có thể: ý định tăng cường đáng kể việc buôn bán vũ khí để lấy ngoại tệ; tìm kiếm sáng chế phát minh ở Cận Đông; sử dụng “đội quân thứ 5” ở Đông Âu nhằm lật đổ những nền dân chủ mới hình thành ở đó. Gorbachov hay ai khác nắm quyền, về thực chất sẽ không có sự lựa chọn nào khác, ngoại trừ phục hồi trật tự, và con đường tốt nhất để tác động tới hoàn cảnh (để cứu các khoản tín dụng và đầu tư của nước ngoài vào trong nước) là tiếp tục hợp tác với những biểu hiện bất đồng.

Nếu hành động trấn áp không vượt quá sự kiện từng diễn ra trên Quảng trường Thiên An Môn (Trung Quốc), thì khả năng phương Tây có được một sự đồng thuận nhằm hóa giải sự kiện cũng như áp dụng đòn trả đũa là đặt biệt thấp; sự đột phá nhanh chóng của lực lượng đa nguyên sẽ tạo nên những viễn cảnh tốt nhất để có được sự ổn định trong và ngoài, dự trên tinh thần hợp tác. Nhưng chiến thắng này của phe đa nguyên cũng sẽ tạo nên những vấn đề của nó. Khả năng của lực lượng đa nguyên có thể điều hành một cách hiệu quả là có vấn đề và sẽ không thể bảo đảm về lâu dài, có thể chỉ là trong một thế hệ.

Vấn đề dân tộc không thể giải quyết được trong ngay một lúc, còn sự căng thẳng trên lòng các nước cộng hòa và giữa các nước đó với nhau vẫn được duy trì ngay chính trong một hệ thống chính trị - kinh tế tối ưu nhất. Một số nước cộng hòa sẽ không do những nhà dân chủ điều hành, song tất cả các nước sẽ đều kỳ vọng vào sự hỗ trợ từ phía Mỹ.

Những thủ lĩnh mới, do chí hướng, thái độ kiên quyết và uy tín địa phương của mình lên nắm quyền, sẽ không có được kinh nghiệm trong các vấn đề quốc tế và họ sẽ đưa ra những nhiệm vụ và yêu cầu vượt quá thực lực - điều đang xảy ra với một số người như họ. Cho dù có những khó khăn như vậy và chắc là quá trình thích ứng trong, ngoài với những nguyên tắc xử thế mới sẽ kéo dài, sự đột phá đó, đặc biệt là nếu nó xảy ra trong hạt nhân xlavơ, có thể tạo ra viễn cảnh tốt nhất cho sự hòa hoãn giữa Đông và Tây, tương tự như viễn cảnh đã từng đẩy quan hệ Pháp - Đức đến tình trạng hiện nay giữa hai nước.
chuongxedap:

Phụ lục N0 8.
Iuri Bondarev: Nước Nga, Người đi đâu?

Chúng ta có ít người trong nghệ thuật mà niềm vinh quang được thổi phồng và được xây dựng bởi báo chí lừa dối có hệ thống, biến họ thành những cái bóng đáng thương và nực cuời của vẻ màu mè chính trị. Nếu nhân vật của văn học phương Tây nhắm tới một mục tiêu là giàu có, thỏa mãn, hạnh phúc bởi sự dồi dào tiền của, thì những nhân vật của Tolxtoy và Doxtoievxki và hầu như của toàn bộ văn học Nga, về thực chất, đều thờ ơ với lợi ích đó, và họ có thể là những kẻ chất phác ngây thơ trong con mắt kẻ thị dân phương Tây.

Các nhân vật của chúng ta cần tới cả một thế giới: nhân hậu, công bằng, sự thật, tình yêu, lòng trung thành, tức là cái vô cùng khi trí tưởng tượng, tư duy, mơ ước và ký ức còn tồn tại. ý nghĩa của cuộc sống liệu có rộng mở cho người tìm được cục vàng không? Trí tưởng tưởng và vàng vừa giải thoát vừa nô dịch chúng ta. Chỉ có điều sự giải thoát và sự nô dịch đó hoàn toàn khác nhau. Tính chất bất ổn của học thuyết Mỹ - phương Tây - đó là sự khủng hoảng ngày một sâu sắc của toàn cầu hóa, không còn phụ thuộc vào yêu cầu, nhận thức của sự giải thích siêu láu cá của những kẻ cầm quyền, mà phụ thuộc vào lực lượng thiên nhiên hoang dại thù địch với toàn nhân loại. Liệu việc hủy diệt mảnh đất và nhân dân Afghanixtan, chứ không phải chính kẻ tội phạm, bằng hàng nghìn quả tên lửa và bom có ý nghĩa gì? Trừng phạt? Báo thù? ăn miếng trả miếng? Trị tội? Thật nực cười khi trừng phạt một kẻ tội phạm không tìm thấy, không bắt được, mà chỉ được xác định bằng lòng mong muốn trả thù của Mỹ, và trí tưởng tượng khiêu khích, bất lực đó - như một bệnh dịch kinh tởm - đã kích động nhân dân Mỹ và châu Âu phụ thuộc Mỹ bằng những cái rỉa rói hàng ngày của báo chí và truyền hình.

Vấn đề này không chỉ là chính trị, không chỉ là nỗi đau đổ vỡ về huyền thoại bất khả xâm phạm của mình. Tôi khẳng định kiên quyết rằng những người dân Mỹ ít học yêu ánh sáng phản chiếu từ tính cách “không chịu khuất phục” của mình trong tấm gương thế giới, và nói chung, yêu giấc mơ vay mượn, nguyên thủy về chính mình như về một dân tộc được chúa trời lựa chọn.

Mỗi dân tộc đều chọn con đường lên thiên đàng của mình. Người Mỹ cho rằng con đường thiên đàng của họ được đo bằng tiếng động ngọt ngào chết chóc của những quả tên lửa, bằng tiếng nổ, bằng tiếng khóc của trẻ em và phụ nữ, bằng cuộc diễu hành của sức mạnh quân sự mà không bị trừng phạt; dường như không còn một mảnh đất nào chưa từng bị bom đạn của Ănglo-xacsông cày xới và chưa từng bị đạn pháo của Mỹ hất tung lên khi họ khẳng định “nền dân chủ thế giới” bằng máu. Tất nhiên, không phải cả nước Mỹ quá bất lực (debilis), nhưng chính nước Mỹ đã lựa chọn, - sự lựa chọn mà nước Đức phát xít đã từng lựa chọn; sức mạnh cao hơn luật pháp - một học thuyết bệnh hoạn của sự thống trị thế giới, của sự dư thừa đối với “tỷ phú vàng”, và trong thực tế là lời hứa cuối cùng của kẻ đê tiện nơi trần thế. Tôi không thể có một chút tưởng tượng rằng một chính khách không còn tư duy lành mạnh lại đứng về phía có lợi cho tinh thần dân tộc. Một sức mạnh kiêu ngạo không bị hạn chế, một sự dốt nát và lòng độc ác không bao giờ chấp thuận mình là kẻ bại trận, chừng nào mà thần chết chưa hiện ra trong con ngươi của nó.

Trong nhiều nhà chính khách, nhận thức, tính kiên trì và lòng tự tôn luôn tồn tại ở số ít, tựa như giá trị của Tổ quốc họ. nếu một triết gia không chữa được căn bệnh có tên gọi là “tư duy” cố giải thích vũ trụ quan, nếu nhà văn và họa sĩ thường xuyên sống theo “mẫu”, cả những cuốn sách tốt, cả những nhân vật của họ luôn thực hiện những hành động cao đẹp, thì chính khách luôn khoác cho những lời nói của mình bộ xmốc-king diêm dúa, họ ưỡn ngực tuồng như đang che chở nỗi bất hạnh của tất cả những ai đang cùng quẫn, họ chia sẻ ánh mắt dịu ngọt, nhìn vào bọn trẻ ở trường học và phân phát những chiếc kẹo. Cũng vào lúc đó, bằng căn bệnh ham hố quyền lực không thể chữa nổi, bằng thói tôn sùng sức mạnh của thế giới này, họ chưa từng một lần ngăn chặn sự đổ máu trong cuộc chiến tranh hiện đại. Họ bào chữa thái độ hèn hạ và sự nhu nhược của mình bằng chủ nghĩa nhân đạo đáng kính và nhân quyền. Có thể là Bin Laden không tồn tại mà do các chính khách bịa đặt ra, còn một “Bin Laden” khác đang đi dạo và thực hiện những tội ác kinh tởm!
chuongxedap:

Để không mang tiếng là kẻ yếm thế, tôi dường như phải điên cuồng ca tụng nhân dân, như ngày nay người ta gọi thế, dân số, trí tuệ của nó, lòng dũng cảm, lòng tốt, thái độ quên mình, sự gan dạ, quá khứ không thể nào quên của dân tộc, niềm vinh quang của dân tộc. Quá khứ đã không thể đảo ngược. Chỉ có hiện tại là thuộc về con người. Và dù sao tôi cũng cảm nhận được niềm vui thầm lặng khi nhớ tới Người, nước Nga thân yêu của tôi. Và tất cả những gì đã gắn bó Người với tuổi thanh xuân của chúng tôi sau chiến tranh vĩ đại. Trong 15 năm cuối này “các nhà dân chủ khả kính” đã phản bội và bán đứng Tổ quốc của tôi tới 3 lần, sau khi làm méo mó những chân lý tốt đẹp, cưỡng bức thanh niên, phá hoại trường học, biến các nhà trẻ thành bãi đất trống, còn những thành phố đói khát thành nơi phát nguyên bệnh lao; cả nước có hàng triệu người mất việc làm, hàng triệu người không được chăm sóc, vô số gái mãi dâm, kẻ bạo hành, cướp của, giết người... và hàng triệu kẻ “ngây thơ” cả tin... Lạy Chúa lòng lành, đừng làm cho họ thành những kẻ ngốc hơn chính mình! Trong 15 năm ấy ở nước Nga đã nảy nòi ra một dạng tiểu thị dân (phi-li-xtanh), một nhánh mới của nó đã từ lâu được nuôi dưỡng dưới những hình thức và phương án khác nhau trên đất Hoa Kỳ. Thì có người bị đắm chìm, bị ghẹn sặc trong bao lo toan, trong nợ nần cơm áo khắc nghiệt hàng ngày, trong mơ mộng hão về một miếng ăn ngon, đầy tiện nghi và sự thỏa mãn; rồi người đó run rẩy, ướt đầm mồ hôi lạnh khi dòng suy nghĩ chốc chốc lại phải quay về với cái dạ dày rỗng. Khi đó con người ấy chẳng là gì cả. Khi đó người ấy tuyệt vọng. Nhưng người đó bị bỏ bùa mê bởi một niềm tin giả dối, bị huyễn hoặc bởi sự láu cá quỷ quyệt của nhà cầm quyền.

Điều chủ yếu: không phải đến hôm nay tôi mới rõ là người ta đã tước đoạt chính cái mà chúng ta cống nạp, rằng những kẻ đội lốt đã trở nên tuân phục, không còn khả năng tự vệ. Không phải là sự chín chắn, thận trọng mà là thái độ nhu nhược và yếu đuối đang yểm bùa để chúng ta an phận nô lệ. Chúng ta đang bị họ ngược đãi bằng thái độ giả dối và đê tiện, họ hủy hoại và cướp bóc trong khi thốt ra những lời mật ngọt về dân chủ, còn chúng ta - những kẻ đáng thương, cực kỳ ngây độn vẫn cứ lẩm bẩm tới mức quên mình :”Thật tuyệt vời được làm người tự do và không phải đi họp ở ban quản lý nhà đất nữa”!

“Hãy tin vào điều tốt nhất, nhưng hãy xem xét tới điều tồi tệ nhất”, đường như quan điểm này xuất hiện trong đầu tôi lúc này có thể là câu trả lời đáng ngờ. Song, liệu có tránh được những sự mỹ miều giả dối trong thực tế của chúng ta? Những đức hạnh đã bị quẳng vào sọt rác và sự bát nháo cực độ của cái gọi là điện ảnh Mỹ đang nổi cơn điên bởi tình dục, bởi sự sa đọa về trí tuệ, bởi sự nhiễm bẩn trong tâm hồn, bởi bệnh hoạn trong tư duy, bởi sự què quặt trong sự thật và ngôn từ đang cổ xúy những bản năng thú vật, những kiểu lăng mạ và giết người. Dường như tất cả chúng ta đang nói với nhau tại nghĩa trang cuộc đời, mà những bộ mặt của những người đã lãng quên cái chết hoặc họ sẽ chết sau một phút. Đó là nền tảng cho sự tồn tại của con người sao? Rặt những đạo đức giả hoang dã, máu, bạo lực, sự đồi bại độc ác, thái độ sợ hãi? Đúng như vậy, như những con lừa trên sa mạc, họ đã hoàn toàn bị đầu độc và băng hoại bởi một xã hội Mỹ đang gào rống về tự do và dân chủ. Và nước Nga đã bước vào thế kỷ 21 đầy bất lợi. Những trò mỵ dân, sự trơ tráo ghê tởm của những điều vô sỉ đang dạo bước trên đất nước chúng ta. Chúng ta biết rằng sự nín nhịn là một phẩm chất Nga tuyệt vời, nhưng trong màn sương của sự giả trá, bấn loạn tâm thần dường như chúng ta đã lãng quên rằng cuộc sống con người quá ngắn ngủi để có thể nín nhịn đến vô cùng.

Chúng ta đang sống trên nước Nga. Song đó không còn là nước Nga mà ông cha ta đã làm cho nó trở nên hùng mạnh, bất khuất. Hình ảnh của nó đã trở nên méo mó như trong “nhà cười” và điệu cười của chúng ta không còn như trong hài kịch, mà đã giống như tiếng thổn thức.

Nhà kinh tế học Smeliov cho rằng “toàn bộ thế kỷ 20 đối với nước Nga là tụt hậu: trong có một thế kỷ nó đã phải trải qua 8 cuộc chiến tranh, 6 cuộc cách mạng. Từ năm 1914, nước Nga đã bị hủy diệt tới 3 thế hệ...”

Bên cạnh đó, trong đời sống nhân loại, ở nước Nga đang diễn ra những biến đổi nguy hiểm, trong tâm thức con người đang có những thay đổi, những phẩm chất tốt nhất đã biến mất: đạo đức, tinh thần, tình yêu, lòng dũng cảm, thái độ quên mình, tình đồng chí, lòng trung thành, danh dự.

Tất cả những biểu hiện nhân tính này đang giảm dần theo năm tháng. Nhân loại trở nên trì độn, chai sạn và hoang dại một cách đáng sợ bởi khi có sức mạnh bao trùm vũ trụ và quyền lực của sự kiêu ngạo quá đáng đã không còn thái độ tỉnh táo đối với bản thân và rút cuộc đã phản bội lại chính mình.
chuongxedap:

Thời đại của những thiên tài đã qua, thời đại của kẻ dại khờ đã đến.

Tôi không chỉ đồng tình với định nghĩa này của Xtalin, mà còn cảm nhận thấy thời đại đó hiện diện ở khắp mọi nơi: trong chính trị, trong nghệ thuật, trong các mối quan hệ đời sống, trong sự trống vắng của lòng lương thiện, trong tình yêu tới mức thú tính.

Thời đại của lòng nhân đạo đã qua, thời đại của những kẻ đáng kính ăn thịt người, của sự độc ác tinh tế và cử những tên lửa có cánh đã tới. Các nhà chính trị đương thời đủ trí tuệ, sự dã man, sự giả dối và bịp bợm để dẫn dắt quần chúng. Song trò chơi quyền lực của những kẻ giàu có mang mục tiêu: toàn cầu hóa thế giới, thống trị thế giới và sự phát đạt cả “tỷ vàng”... những giấc mơ ngọt ngào của chúng gợi nhớ tới Kế hoạch “Ost” (East - Phương Đông) do Rozenberg vạch ra ở Đức. Kế hoạch này, rõ ràng, đã có thể trở thành hiện thực nếu như nước Nga không làm cho nó bị phá sản. Hoàn toàn không thể nghi ngờ rằng sau khi chiến thắng Liên Xô, thì với tiềm lực của chúng, bè lũ Hítle sẽ dễ dàng chiếm được cả Anh và Mỹ bởi chúng có một đội quân mạnh nhất, hơn hẳn quân đội Mỹ về tinh thần chiến đấu.

Kế hoạch “Ost” (Phương Đông) bị phá sản. Kế hoạch toàn cầu hóa cũng đề ra mục tiêu thống trị thế giới, chưa hẳn đã được các quốc gia lớn nhỏ giang rộng tay tiếp nhận. Bởi nhân loại sẽ chỉ còn duy nhất một khả năng - giật mình trước sự đe dọa hoặc trước những mệnh lệnh ngọt ngào giả trá từ phía Mỹ.

Vậy thì, nhà kinh tế hay nhà chính trị sẽ lãnh đạo thế giới? Kẻ nào sẽ giữ đỉnh cao chỉ huy và đưa ra chỉ thị cho cuộc sống của chúng ta?

“Nhưng chúng ta đã chọn lựa ra các chính trị gia của mình, và trong thảm họa chủ yếu của chúng ta, chúng ta cần kiên quyết, thẳng thắn buộc tội chính mình, thói lười biếng tự suy nghĩ, tính ỷ lại và sự ngây ngô ấu trĩ về tư duy, thái độ tin tưởng vô vọng vào “sự may mắn” Thượng đế sẽ trao cho một cuộc sống sung túc.

Nhân dân đã không còn tự tôn, đúng hơn là họ đã rụt rè đòi chính quyền của những kẻ giàu có tôn trọng các quyền con người của mình. Họ run rẩy, sợ hãi khi bày tỏ thái độ phản kháng “những lãnh tụ” và sự xiểm nịnh của chúng trước phương Tây, để rồi không còn là chính mình nữa khi một bộ phận nhân dân trở nên đồi bại, hư hỏng. Bộ phận đó trở nên đố kỵ, độc ác, luôn ấp ủ những ước vọng về một cuộc sống an nhàn, thỏa mãn, giàu có dễ dàng mà hàng ngày họ vẫn thấy trên màn ảnh vô tuyến, như những gì được trang trí trên cây thông Noel. Bộ phận đó trở nên sa đọa bởi những cảnh tình dục kiểu Mỹ và kiểu Nga. Bộ phận đó không còn biết đến nỗi đâu, nỗi bất hạnh và những tai họa của người khác; đám phụ nữ đã không còn biết xấu hổ, “cảnh cởi bỏ” đồ lót một cách thân mật đã trở nên bình thường, song những tấm thân trần truồng lại không gợi nên xúc cảm tự nhiên, mà chỉ gây ra những tiếng cười cay độc của những kẻ phụng thờ những điều bất thường”.

Tôi biết rằng thái độ phẫn nộ của người Nga tựa thủy triều. Trên biển, khi triều rút xuống - êm ả; khi triều lên - vang động, dữ dội, mãnh liệt.

Tôi không hình dung nổi cuộc đời mình lại thiếu nước Nga, nhưng giờ đây Tổ quốc của tôi dường như trở nên xa lạ đối với tôi; nó đang ở trạng thái thủy triều rút xuống thật bẽ bàng. Bộ não của chúng ta chỉ tựa như con muỗi, song con tim vẫn đập. Cơn phẫn nộ Nga hiện nay là thế đó. Cơn phẫn nộ của sự thật đã tắt lịm và đang hủy hoại sức sống. Đó là một nguy hiểm chết người.

Lý trí đã trao cho con người cơ hội lựa chọn. Hoặc chấp nhận sự trị vì của chính những kẻ chính khách đạo đức giả, của những kẻ tiểu thị dân đang cướp bóc thị trường, của những kẻ tham vọng quyền lực và lợi dụng lòng nhân hậu của nhân dân? Hoặc là một nước Nga vĩ đại - độc lập, tự hào, tự do với một nền văn hóa cao nhất thế giới?

Tôi không công nhận chủ nghĩa bảo thủ lãng mạn, đồng thời tôi cũng không phủ định một quan điểm của thuyết quyết định luận (Eschatoslogy) trong quan điểm về lịch sử. Lịch sử đang cvho tôi thấy một sự vận động chuyển từ những vấn đề phức tạp đang thịnh hành sang đơn giản và cuối cùng tắt lịm.

Nước Nga, nước Nga thân yêu của tôi bị lừa dối, bị cướp bóc, chịu đựng bao bất công...

Nhưng dù sao, nếu ngọn lửa hy vọng chưa bị dập tắt, mảnh đất Nga chưa bị đau thương giày xéo đến mức hoang tàn, nếu trong u buồn chưa để mất sức vận động và khát vọng về cuộc sống tự nhiên, thì khi đó một con tàu đã đắm cũng có thể thoát nạn bằng nỗ lực của toàn bộ thủy thủ đoàn - và trong linh hồn chúng ta sẽ rực cháy lên một niềm vui tươi sáng.
Để bạn đọc có thêm thông tin về sự kiện này, chúng tôi lược dịch bài viết của Oleg Davydov đăng trên báo Độc lập (Nga) ngày 18/8/2001.

Chính biến Tháng 8 năm 1991

Âm mưu của các tổng thống

Một đêm hè, có ba người đứng ngoài hiên nhà của khu biệt thự cổ bàn với nhau về việc cần phải bắt giữ Chủ tịch KGB Kriuchkov, Bộ trưởng Quốc phòng Iazov, Bộ trưởng Nội vụ Puto, Phó Tổng thống Liên xô Ianaiev - những người, về thực chất, là bộ xương của “ủy ban quốc gia về tình trạng khẩn cấp” ở Liên xô.

Ngày 29 tháng 7 năm 1991, tại Novo-Ogarev, ba nhân vật - Gorbachov (Tổng thống Liên xô), Eltxin (Tổng thống Nga) và Nazarbaev (nhà lãnh đạo của Kazaxtan) - thì thầm với nhau. Cả ba bước ra ngoài trời bởi Eltxin có cảm giác đang bị người khác nghe trộm câu chuyện của họ. Và thật sự là người của Kriuchkov đang ghi lại cuộc nói chuyện này. Một thời gian sau khi cuộc bạo động thất bại, chính Eltxin đã được tận mắt xem bản giải mã của lần ghi âm này. Trong cuốn “Những ghi chép của Tổng thống” (Nxb Chính trị quốc gia, H., 1995) Eltxin đã có một câu kết: “Có thể, chính cuộn băng ghi âm này là cái cò súng của tháng 8 năm 1991”.

Vụ chính biến xảy ra trước khi ký kết bản Hiệp ước Liên bang mới đã được chuẩn bị kỹ càng tại Novo-Ogarev. Galia Xtavrotova, người nắm được thông tin, sau này đã công khai tuyên bố rằng “Tổng thống Nga liệu có ký bản hiệp ước mà theo xác nhận vào ngày 20 tháng 8 là ông ta đã lỡ miệng”. Nếu hiểu rõ Eltxin thì không có gì phải nghi ngờ điều đó. Thậm chí, không loại trừ việc ông ta đã có thể tạo ra một vụ bê bối (scandan) ngay trong lễ ký kết: tựu chung là nhằm không ký cái gì hết. Rồi trên bất kể trường hợp nào - ngay sau khi phía Boris Nikolaievich (Eltxin) ký kết thì những bước tiếp theo dứt khoát sẽ dẫn đến việc Hiệp ước Liên bang mới không còn chút giá trị gì đối với Gorbachov. Phe dân chủ của vị nguyên thủ nước Nga đã chuẩn bị nền móng cho việc này rồi.

Ngay trên trang đầu của báo Độc Lập, ngày 8 tháng 8 năm 199, có đăng “Lời hiệu triệu gửi Tổng thống Nga B. N. Eltxin” của nhiều nhà dân chủ, trong đó người đứng đầu danh sách 7 người đã ký là Iuri Afanaxiev, tiếp đến là Elena Bonner. Bản hiệu triệu này cho thấy rằng “nhân dân Nga không được biết đến văn bản hiệp ước đã soạn thảo ở hình thức chuẩn bị cho việc ký kết này”, còn văn bản trước đó thì lại chưa được thảo luận và không được tán thành.

Nói chung, không ai có thể giải thích vì sao nước Nga, cũng chỉ như các nước cộng hòa khác, lại có tới hai vị Tổng thống trên mình và mọi người không hề muốn phụ thuộc vào mối quan hệ của họ. Cần gì phải có tới hai Xô viết tối cao - nguồn gốc tạo ra xung đột của pháp luật? Có cần tới hai Chính phủ - Chính phủ này chồng lên Chính phủ kia như thế? Và liệu Chính phủ hợp hiến có thể cùng lúc chung sống với hai nền hiến pháp?.

Riêng Gorbachov cũng muốn bản Hiệp ước này được ký kết để tránh những vấn đề như tình trạng trên. Hơn nữa, có nhiều điều đề cập đến trong “lời hiệu triệu...” hoàn toàn tỉnh táo. Không thể cho phép ký kết những văn kiện quan trọng, như Hiệp ước Liên bang - tạo nên một nhà nước mới, mà lại bí mật và chưa được thảo luận rộng rãi (Văn bản chính thức của hiệp ước chỉ được công bố vào ngày 16/ 9/1991). Tuy nhiên, dù sao các lời kêu gọi tỉnh táo gửi cho Eltxin này cũng thật sự mỵ dân và nhằm chống lại Gorbachov, bởi mục đích cuối cùng của các tác giả “Lời hiệu triệu...” chỉ là không cho phép ký kết bản hiệp ước. Không ai dám khẳng định chắc chắn rằng “Lời hiệu triệu...” của các nhà dân chủ danh tiếng đã được Eltxin nhất trí từ trước đến từng chi tiết, nhưng điều chắc chắn nó là thành phần trong chiến dịch của giới lãnh đạo Nga nhằm hủy bỏ việc ký kết Hiệp ước Liên bang mới.

B. Eltxin đã từng có những cố gắng to lớn để nghị viện Nga thông qua quyết định về việc ký kết hiệp ước này và rút cuộc quyết định đã được thông qua. Khi đó, liệu ai có thể nghĩ rằng văn kiện này (đúng hơn là một câu của nó) lại trở thành chướng ngại vật thật sự cho những hành động sau này của Tổng thống Nga? Đó là câu được ghi ở cuối quyết định: “Trước khi ký kết, bản Hiệp ước Liên bang phải được trình lên Xô viết Tối cao Cộng hòa Liên bang Nga”. Việc đoàn đại biểu chính thức của LB Nga sau hai tuần nữa, vào ngày 20 tháng 8, sẽ ký kết Hiệp ước Liên bang mới đã được công bố. Phiên họp tiếp theo của Xô viết Tối cao Nga thì chỉ có thể triệu tập vào giữa tháng 9. Tóm lại, sự xung đột giữa Tổng thống Eltxin đang khao khát ký hiệp ước với các nghĩ sĩ tuân thủ nguyên tắc đã buộc phải triệu tập khẩn cấp Xô viết Tối cao hoặc phải chuyển ngày ký...

Người đã nhận ra mâu thuẫn đó và đề đạt với Eltxin vấn đề có tính nguyên tắc đó chính là viên cố vấn của Tổng thống Nga, Chủ tịch ủy ban Pháp luật của Xô viết Tối cao Cộng hòa Liên bang Nga Xergey Sakhrai. Và cũng chính Sakhrai, bốn tháng sau đó trở thành bộ não của cuộc chính biến Belovez.
chuongxedap:

Gorbachov vốn thận trọng, song đôi khi cũng bộc lộ cho mọi người thấy vai trò thực sự của Eltxin trong việc tạo ra hòan cảnh của cuộc chính biến tháng Tám: “Ông ta suốt vài tháng liền (Nazarbaiev thổ lộ với tôi điều này) đã tiến hành những cuộc đàm phán lén lút về sự thỏa thuận duy nhất “bốn nước” - Nga, Ucraina, Belorus và Cazakxtan. Việc đàm phán lúc lụi tàn lúc sôi nổi, ý tưởng đó đã không rời bỏ vị Tổng thống Liên bang Nga và cả những người khác nữa”.

Những người khác đó bao gồm các nhà dân chủ Nga và những nhà lãnh đạo dân chủ hơn của các nước cộng hòa liên bang. Những con người đáng kính này rất muốn tạo dựng ra một cái gì đó mà không có Gorbachov. Rồi họ cũng tìm ra được phương thức để làm được điều đó. Ngoài những hiệp ước song phương mà họ đã ký kết thông qua vị nguyên thủ Trung ương, họ cũng đã thử ký các hiệp ước các nhóm nước. Bỏ qua Gorbachov, ngày 14 tháng 8 năm 1991 tại Taskent đã kết thúc cuộc gặp giữa tổng thống các nước cộng hòa vùng Trung Á và Cazakxtan. Trong cuộc gặp này họ đã bàn về một hiệp ước liên bang và thông qua quyết định về việc tổ chức Hội đồng Tư vấn các nước cộng hòa.

Còn ngày 16 tháng 8 năm 1991 (ngày công bố văn bản chính thức của Hiệp ước Liên bang), Eltxin đã bay tới Alma-Ata gặp Nazarbaiev để trao đổi bản phê chuẩn hiệp ước giữa Nga và Cazakxtan. Tuy nhiên, không chỉ có những gì đã thông báo. Trước ngày 20 tháng 8 vẫn còn những điều cần phải bàn luận - nội dung cuộc gặp tại Taskent và tại cuộc gặp sắp tới của nguyên thủ 15 nước cộng hòa, không có sự tham gia của Trung ương, không có Gorbachov - vị Tổng thống duy nhất cho đến tận lúc đó chưa biết gì về cuộc gặp này. - được hoạch định vào cuối tháng 8 tại Alma-Ata. Đây là một bất ngờ quá lớn đối với Gorbachov. Chưa ký hiệp ước mà các nước cộng hòa đã coi thường Trung ương, vậy trong tương lai sẽ thế nào?

Trong ngày hôm đó, Gorbachov với vẻ bị kích động, to tiếng hỏi Boldin về cuộc họp của lãnh đạo các nước cộng hòa tại Alma-Ata:

- Anh có hiểu, cái đó gọi là thế nào không? Các thủ lĩnh địa phương đã coi thường ý kiến của Tổng thống Liên xô khi giải quyết các vấn đề quốc gia. Đó là âm mưu. Tôi không bỏ qua chuyện này. Cần áp dụng ngay các biện pháp...

Ngày 18 tháng 8. Sau khi bàn định với Nazarbaiev kịch bản hành động cho cuối tháng 8, Eltxin đã chấp thuận đề nghị của vị nguyên thủ Cộng hòa Cazakxtan đi thư giãn: Họ tới một vùng núi có suối chảy xiết bao quanh... có tiệc tùng, dàn nhạc sống... Eltxin kể lại: “Đến lúc phải về thôi. Nazarbaiev không buông tha chúng ta đâu. Tôi đã hoa cả mắt lên rồi. Lúc đầu định một tiếng. Sau lại thêm tiếng nữa. Lòng mến khách phương Đông của Nurxulxtan Abisevich (Nazarbaiev) thật dễ chịu, thanh lịch. Nhưng đủ rồi. Tôi cảm giác chuyện này có gì đó không ổn... Tôi không nghĩ rằng việc lưu chúng ta ở Alma-Ata cả ba tiếng đồng hồ là tình cờ đâu”. Không ai biết là con người này định ám chỉ điều gì.

Vào lúc 5 giờ chiều, trong khi Tổng thống Nga đang tận hưởng thú thư giãn phương Đông, Tổng thống Liên xô đang nghỉ theo kiểu châu Âu tại lâu đài Foros, người ta đã báo cáo rằng các đồng chí Baklanov, Boldin, Varennicov, Senin đã đi tiễn hai viên tướng Plekhanov và Generalov của ủy ban An ninh quốc gia.

Trước khi tiếp các kẻ mưu phản, Gorbachov đã đến chỗ vợ mình. Chuyện đó được ghi trong cuốn nhật ký của bà ta như sau: “Mikhain Xergeyevich bất thình lình lao vào phòng tôi. Anh ấy có vẻ kích động. “Đã xảy ra chuyện gì đó rất tồi tệ, - anh ấy nói. - có thể là rất kinh khủng”. Sau đó ông ta cho vợ biết ai đã đến và nói tiếp: “Họ yêu cầu gặp tôi. Họ đang ở trong khu nhà nghỉ, cạnh nhà. Nhưng tôi có mời ai đâu!”. Chúng ta hình dung thử sự rối loạn: “Mọi liên lạc bị cắt đứt! Đó là sự cô lập! Thế có nghĩa là có âm mưu? Bị bắt giam?”. “Tôi sẽ không phiêu lưu, không thông đồng. Tôi sẽ không đầu hàng bất cứ một sự đe doạ, bức bách nào”.

Nhưng làm gì có ai nói là phải “đe doạ, bức bách”. những người mới đến vẫn đứng chờ dưới cửa ra vào với vẻ kính trọng, cho dù họ không chịu nói về tình hình lúc đó ở trong nước. Bốn mươi phút sau, vị nguyên thủ quốc gia từ phòng nghỉ bước ra. Giọng nói của ông ta lộ vẻ tức giận: “Đã xảy ra chuyện gì? Tại sao không báo trước? Sao điện thoại không sử dụng được?”.

Rất có thể, chính Gorbachov cũng muốn tiến hành tình trạng khẩn cấp. Chính ông ta đã nhiều lần khẳng định tình hình là rất căng thẳng, cần phải áp dụng những biện pháp đặc biệt nào đó để thoát khỏi khủng hoảng đang đe dọa nghiêm trọng đất nước. Tuy nhiên, điều đó chưa hoàn toàn khẳng định ông ta đã muốn tiến hành tình trạng khẩn cấp. Nhưng ông ta không ra mệnh lệnh đó, thì ông ta cũng không cả việc chống lại tình trạng khẩn cấp. Theo Anatoli Lukianov: “Ngày 3 tháng 8 năm 1991, chỉ hai tuần trước cái gọi là cuộc chính biến, Gorbachov tại phòng họp các bộ trưởng đã xác nhận “trong nước có sự hiện diện của tình trạng khẩn cấp và sự cần thiết các biện pháp khẩn cấp” Ông ta còn khẳng định thêm rằng “nhân dân sẽ hiểu điều này!”.

“Sự cần thiết các biện pháp khẩn cấp” còn được nói tới ngay sát trước khi ông ta đi nghỉ ở Foros (ngày 4 tháng 8)... Sự khác biệt rất cơ bản là: lời bóng gió đó được nói tới như bất kỳ những điều khác trong dòng ngôn từ bất tận sẽ hoàn toàn khác hẳn với lời nói trước khi đi đến nơi nghỉ để không bao giờ trở về - vì lời nói đó được xem như ý nguyện cuối cùng... Với những kẻ đã quen đón lựa ý của cấp trên, thì lời nói của Gorbachov về “sự cần thiết các biện pháp khẩn cấp” được coi như lời chỉ dẫn: cần áp dụng các biện pháp khẩn cấp khi tôi vắng mặt.
chuongxedap:

Chúng ta quay trở lại Foros. Những người được Matxcơva cử đến bước vào phòng của Tổng thống. Sau khi quan sát họ và nhìn thấy Plekhanov, Gorbachov giận dữ: “Anh đến đây có việc gì?” và đuổi viên chỉ huy cơ quan bảo vệ KGB đi. Sau đó, ông ta đưa ra câu hỏi cụ thể đầu tiên: “Các anh đại diện cho ai, nhân danh gì để nói?”. Boldin kể lại rằng, anh ta có cảm giác Gorbachov rất sợ nếu nghe thấy những người đến đây đại diện cho giới lãnh đạo Nga. Boldin giải thích cảm giác đó của mình rằng: “Cuộc gặp mặt nguyên thủ các nước cộng hòa sắp diễn ra làm cho ông ta ngày càng lo lắng, và như ông ta dự đoán là có âm mưu nào đó. Điều dễ hiểu là tại sao Gorbachov lại cho rằng có “âm mưu nào đó”: mới cách đó hai ngày ông ta đã sững sờ vì chuyện này khi trao đổi với Boldin.

Nhưng chưa rõ vì sao vị Tổng thống lại có thể nghĩ rằng những người đến đây lại can dự vào âm mưu với Eltxin. Mặc dù vào thời điểm đó ông ta đã thực sự lo lắng về một vụ âm mưu của các tổng thống, mà theo ông ta, là do Eltxin cầm đầu. “Sau khi nghe nói đến những người mà phần lớn trong số này trước kia đã từng theo lệnh của Tổng thống hoạch định ra các biện pháp dự phòng trong trường xảy ra hoàn cảnh khẩn cấp, thì Gorbachov đã dịu đi”. Những vị khách không mời tiếp tục nói đến thảm họa trong ngành công nghiệp, nông nghiệp, quân đội... Họ đề nghị ông ký sắc lệnh về tiến hành tình trạng khẩn cấp. Boldin nhận thấy Gorbachov không chú ý tới những điều họ nói và đang suy nghĩ về việc gì đó của ông ta, rồi sau đó “bất ngờ ông ta hỏi; liệu rằng các biện pháp của tình trạng khẩn cấp có tác động tới ban lãnh đạo Nga. Sau khi nghe được câu trả lời khẳng định, ông ta đã tỏ ra bình tĩnh hơn nhiều”.

Con người đã ngồi trong tù vì tham gia vào các trò ngu xuẩn của ủy ban quốc gia về tình trạng khẩn cấp, tất nhiên, chỉ là một nhân chứng tồi. Nhưng, trong lời nói ra của anh ta cũng có sự thật mộc mạc của mình. Theo những thông tin của Gorbachov thì B. N. Eltxin là kẻ ngăn cản nhiều nhất đối với việc ký Hiệp ước Liên bang mới. Ngay lúc này đây Boris đang thỏa thuận với Nazarbaiev điều gì đó, như: có cách gì không cần tới Tổng thống liên bang?... Vậy thì vấn đề bắt giữ Eltxin (nếu ông ta có lệnh) có lẽ hoàn toàn hợp pháp.

Thật ra, không ai nói rằng Gorbachov đặt ra vấn đề bắt giam Eltxin, song cũng có việc ông ta đã nói về việc bắt giam vị thủ lĩnh Nga. Điều này do chính Gorbachov kể: Baklanov “đã nói rằng Eltxin bị bắt giam. Mặc dù sau đó ông ta đã chữa lại là sẽ bị bắt giam trên đường (khi rời Alma-Ata)”. Khi giải thích điều này, vị Tổng Bí thư nhận xét rằng: “do bị cuốn theo các sự kiện, các kẻ âm mưu đã định bằng cách này cho tôi hiểu rằng họ đã làm chủ được tình hình và không có đường lùi”, “Dầu sao tất cả những người này cũng do tôi tiến cử và giờ đây họ đã phản bội lại tôi”, “Tôi đã cương quyết bác bỏ sự thoán nghịch của họ, tôi đã tuyên bố rằng tôi sẽ không ký bất cứ sắc lệnh nào”. Điều này là đúng bởi nếu ông ta ký vào sắc lệnh có nghĩa là ông ta dấn bước đến một cuộc xung đột mà không biết nó sẽ dẫn đến đâu.

Khi bị từ chối, Baklanov đã nói: “Nếu ngài không muốn chính mình ký sắc lệnh về tiến hành tình trạng khẩn cấp, thì ngài hãy ủy quyền cho Ianaiev. Ngài cứ việc nghỉ ngơi, chúng tôi sẽ làm “công việc bẩn thỉu”, rồi sau đó ngài có thể trở về”. Còn khi Gorbachov “từ chối lời đề nghị đê tiện đó”, Varennicov đã nói: “Vậy ngài hãy từ chức”. Gorbachov trả lời: “sẽ không có chuyện đó”. Sau đó (theo các tài liệu điều tra) viên tướng này bắt đầu quát nạt ...

Liệu có chuyện như vậy xảy ra với Tổng thống của một cường quốc không? Ông ta vì nguyên nhân nào đó mới chỉ bị mất liên lạc, nhưng ngay khi đó hoàn toàn vẫn có thể sử dụng đội bảo vệ của mình để tới được Matxcowva. Vladimir Medvedev (Đội trưởng đội bảo vệ của Tổng thống) đã viết rằng: “Về mặt kỹ thuật, đó là chuyện vớ vẩn: bắt giữ họ làm con tin và đưa về Matxcowva. Đến Thủ đô rồi ra tuyên bố, từ đó có thể phanh phui ra bất cứ kẻ nào tuỳ thích. Hôm đó mới chỉ là ngày 18... Vì sao Gorbachov không tính ra? Ông ta đã không rõ tình hình?...”

Tại sao Tổng thống đã không phát đi một tín hiệu nào cho ai đó? Câu trả lời của ông ta là: “Trước hết là tôi đã tính rằng việc tôi từ chối chấp thuận những yêu cầu tối hậu của ủy ban quốc gia về tình trạng khẩn cấp sẽ làm cho những kẻ chủ mưu sáng mắt ra.... Hơn nữa, ý đồ bắt giữ họ tại khu nhà nghỉ không giải quyết được việc gì. Bởi những kẻ chủ mưu đang ở Matxcơva, vào thời điểm đó họ nắm chính quyền trong tay”

Rồi cuộc tiếp kiến cũng kết thúc. Gorrbachov nói: “Chúng tôi chia tay nhau. Khi họ đã đi khỏi, tôi đã không kìm chế được, tôi đã chửi rủa họ “theo kiểu Nga” - mudakami”. Các đồng chí của ông ta ngạc nhiên. Baklanov nói: “Nhưng chính ông ta vừa mới cho rằng việc tiến hành tình trạng khẩn cấp là lối thoát duy nhất. Có chuyện gì đã xảy ra vậy?”.

Trong khi đó, chính Kriuchcov, Lukianov, Pavlov, Pugo, Iazov, Ianaiev đang chờ đợi, lo âu. Họ sẵn sàng gánh vác vận mệnh của Tổ quốc, nhưng họ đang chờ đợi để được biết quyết định của Tổng thống...


HẾT

Hello Việt Nam