Sàn giao dịch mua bán trực tuyến MB24

MUA BÁN TRỰC TUYẾN HAY THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ HIỆN ĐANG LÀ XU THẾ PHÁT TRIỂN CHUNG CỦA CẢ THẾ GIỚI.TUY NHIÊN Ở VIỆT NAM HÌNH THỨC TRÊN CÒN KHÁ MỚI MẺ. Xin trân trọng giới thiệu tới Quý Bạn Sàn giao dịch thương mại điện tử mua bán trực tuyến MB24 . Hiện tại Tôi đang có 3 gian hàng mua bán trên sàn giao dịch này . Bạn có thể trực tiếp kinh doanh trên gian hàng của mình , hoặc bạn sẽ được mua hàng chất lượng tốt với giá rẻ của nhà sản xuất mà không phải trả chi phí cho bất cứ một khâu trung gian nào. TIẾT KIỆM CHI PHÍ CHO GIA ĐÌNH BẠN NHIỀU TRIỆU ĐỒNG.Bạn có thể liên hệ với Tôi để tham gia mua bán trực tuyến và tham gia Thương mại điện tử ngay nha : 0919.781.981

Thứ Bảy, 25 tháng 6, 2011

Chương IV (tiếp)


chuongxedap:

Những huyền thoại của cải tổ và công khai

   Thông thường, đối lập trực tiếp với sai lầm không hẳn là sự thật,
mà chỉ là một sự cực đoan khác của chính sai lầm đó.
               Ivan Kireievxki1


Không một ai có thể phân biệt được thật giả trong những gì phương Tây viết về Nga. Chỉ có thể nhận xét rằng khi ở phương Tây viết rằng có những con gấu đi dạo trên các đường phố Nga, thì điều đó có vẻ rất khách quan vì chuyện đó cũng có thể xảy ra... Nhưng “tính công khai” lại vượt quá những gì có thể xảy ra và không có thể xảy ra. Ví dụ, họ viết rằng N. Ceasescu (Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Rumani. NộI DUNG) đã bắt được một lượng ma túy chuyển từ Liên Xô sang Rumani, và sau đó đã bán chúng; rằng V. E. Xemichatsnyi, khi còn là Chủ tịch KGB, đã sát hại và đàn áp những người Do Thái đang chuẩn bị rời Liên Xô sang Israel; rằng KGB là kẻ sống nhờ vào đám gái điếm (souteneur) vĩ đại nhất và vào năm 1987 đã đào tạo 12 nghìn gái điếm để thu ngoại tệ tài trợ cho các chiến dịch của mình...

Hàng loạt huyền thoại như thế được lặp đi lặp lại nhiều lần trên báo đài, truyền hình, trong mọi cuộc mít tinh.

Huyền thoại vĩ đại nhất và công phu nhất là huyền thoại về Xtalin. Họ đã viết rất nhiều về chuyện Viện sĩ V. M. Bekhterev (người chuyên chăm sóc sức khỏe cho Xtalin) dường như đã bị đầu độc theo lệnh của Xtalin. Họ dẫn ra rất nhiều câu của viện sĩ nói về Xtalin và tình trạng sức khỏe của ông, họ gắn trách nhiệm của ông với nhiều cái chết “bí ẩn” của các nhà hoạt động lỗi lạc của Liên Xô, đưa ra nhiều kết luận gây nghi ngờ, không thể kiểm chứng được... Chỉ rất ít người đủ tỉnh táo mới hiểu được rằng Viện sĩ không thể nói những lời như thế bởi ông có trách nhiệm giữ gìn những bí mật về tình trạng sức khỏe của Xtalin. Song điều chính yếu là họ muốn gây nên sự ghê tởm về những hành vi của Xtalin, bôi nhọ thanh danh của Liên Xô, của toàn bộ hệ thống và quá khứ của đất nước chúng ta. Tuy nhiên, suốt một thời gian dài, họ cũng đã ghi được dấu ấn vào nhận thức của nhiều người đọc về Xtalin như về một con người không bình thường về mặt tâm lý.

Tuy nhiên, mãi đến năm 1995, trả lời phỏng vấn của tạp chí “Nhân chứng và sự kiện”, Natalia Petrovna Bekhtereva - cháu gái của Viện sĩ V. M. Bekhterev, đã nói: “Đó chính là khuynh hướngcoi Xtalin như một người điên, trong đó họ đã sử dụng những lời nói dường như là của ông tôi, mà chính chúng tôi biết là không có những lời như thế. Ông tôi thực sự đã bị đầu độc, nhưng vì một kẻ khác. Và giả thuyết ấy đã có lợi cho ai đó. Người ta đã gây sức ép với tôi để tôi đã phải khẳng định rằng điều đó đã xảy ra đúng như vậy. Họ nói với tôi rằng họ sẽ viết V. M. Bekhterev đã là một con người quả cảm ra sao và đã chết như thế nào, đã thực hiện nghĩa vụ của người thầy thuốc như thế nào. Nghĩa vụ của người thầy thuốc ư? Ông tôi là một bác sĩ giỏi, làm sao có chuyện ông có thể bỏ mặc người bệnh mà nói rằng đó là kẻ thần kinh hoang tưởng được? Ông tôi không thể làm điều đó”.

Xtalin - một nguyên thủ vĩ đại - đã rất sáng suốt và đã biết trước rằng sẽ có chuyện như vậy: “Tôi biết rằng sau khi tôi chết người ta sẽ trút cả đống rác lên mộ của tôi, nhưng ngọn gió lịch sử sẽ thổi tung chúng đi một cách không thương tiếc”.

Huyền thoại về GULAG (Tổng cục các trại lao động - cải tạo). Cả một chiến dịch “Chống GULAG” đã diễn ra trên mọi ấn phẩm, từ “Nhà thiên nhiên học trẻ” đến “Crocodil”, và đặc biệt nổi bật trong các báo cáo của cái gọi là “ủy ban của Iakovlev” - ủy ban thuộc BCHTW ĐCS Liên Xô về nghiên cứu bổ sung những tài liệu liên quan tới những cuộc thanh trừng trong giai đoạn 1930 - 1940 và đầu những năm 1950, được tổ chức từ tháng 9 năm 1987. Có kẻ đã lập nên kỷ lục trong chuyên này khi tuyên bố rằng khoảng 60, thậm chí là 100 triệu người đã bị chết trong các trại cải tạo đó.
________________________________
1. Ivan Vaxiliev Kireievxki (1806 - 1856) triết gia, nhà phê bình văn học, nhà báo Nga. Một trong những người sáng lập ra chủ nghĩa Xlavơ. (Theo Từ điển Bách khoa Xô Viết. 1985). ND.
Huyền thoại về “những biên bản bổ sung”. Vì sao lại phải đưa “những biên bản bổ sung” của Hiệp định giữa Liên Xô và Đức phát xít đã bị lãng quên từ lâu lên bàn tranh luận một cách gay gắt đến như vậy? Và nguyên nhân chỉ đơn giản là “những biên bản bổ sung” đã tạo ra lý do để nói về “tính chất bất hợp pháp” của việc đưa các nước cộng hòa vùng Bantik vào những năm 1939 - 1940 vào Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết và bằng cách đó tạo cớ để đỏi tách các nước đó ra khỏi Liên Xô, tiếp theo đó là tất cả các nước cộng hòa còn lại khác. Một việc không kém phần quan trọng là trong vấn đề lịch sử này có sự hiện diện của phía Ba Lan.

Ai là kẻ đầu tiên đã gắn đề tài này với những quá trình “cải tổ”? Mọi người đểu chỉ ra đó là V. M. Falin, cựu đại sứ tại Cộng hòa liên bang Đức (nơi mà đề tài này đã nhiều lần được đề cập tới trên báo chí và hồi ký của các chính khách), còn hiện nay đang là nhân viên khoa học của một “Bộ tham mưu thần kinh” ở Đức. Trong hồi ký của mình, ông ta viết: “Vào những năm 1986 - 1987, tôi đã đưa vào phong trào mọi đòn bẩy mà tôi có được để soi sáng những bí mật trong chính sách trước chiến tranh của Liên Xô. Thái độ sẵn sàng giúp đỡ của Anatoli Chernaiev và Georgi Xmirnov - những người trợ lý của Tổng Bí thư Mikhain Gorbachov, đã tạo cho tôi những niềm tin trong hành động.

Mùa xuân năm 1987, khi đề tài này được đưa ra trao đổi ý kiến, tôi cho rằng mình đã hoàn thành nghĩa vụ của mình. Tôi đã quá vội vàng. Do Xmirnov có mặt trong Bộ Chính trị, nên tôi biết rằng tất cả những bài phát biểu, kể cả của Andrey Gromyko, ở những mức độ khác nhau nhất định, đều thể hiện thuận lợi cho việc công nhận sự tồn tại của những biên bản bí mật đính kèm với hiệp ước về việc không tấn công và hiệp ước về biên giới và hữu nghị được ký kết giữa Liên Xô với đức phát xít vào khoảng tháng 8 và tháng 9 năm 1939. Gorbachov đã rút ra kết luận: “Chừng nào trước mặt tôi chưa có được nguyên bản, tôi không thể dựa vào các bản copy để nhận lãnh trách nhiệm chính trị về mình và công nhận rằng có các biên bản đó”.

Dường như thái độ quan tâm tới danh dự Tổ quốc và sự sáng suốt của người lãnh đạo đã khuyên họ nên “uốn lưỡi bảy lần trước khi nói” (Nguyên văn: Đo bảy lần trước khi cắt). Không hề có tranh luận. Và nếu có nổ ra tranh luận, liệu ai có thể nghi ngờ sự khẳng định của Gorbachov. Không một ai ngoài Valeri Boldin - người giữ những bí mật cao nhất của Đảng và Nhà nước. Nhưng chính anh ta đã được dạy cách im lặng (Nguyên văn: Giữ lưỡi sau răng)”.

Trong hồi ký viết: “Giả thuyết của V. M. Falin về việc M. X. Gorbachov từ năm 1987 đã biết về nội dung Hồ sơ mật số 34 do chính tay Vụ trưởng Vụ 6 (Vụ Tổng hợp BCHTW ĐCS Liên Xô) ghi rằng: “Đã báo cáo đ/c Boldin V. I. Có lệnh bảo quản tại vụ. Có thể trả sách vào thư viện. Ngày 10/7/87. L. Moskov”. Vậy cuốn sách mà Moskov nói tới trong đó là thế nào? Đó là những tài liệu ngoại giao của Bộ Ngoại giao Đức rất nổi tiếng ở phương Tây và đã từng được công bố ở Liên Xô dưới thời Xtalin như một “sự xuyên tạc lịch sử”, chứa đựng các tư liệu về quan hệ Xô - Đức trong những năm 1939 - 1941. Lần đầu tiên chúng được công bố tại Tòa án quốc tế Nurnberg năm 1946. Vào đầu “chiến tranh lạnh”, chúng đã được Bộ Ngoại giao Mỹ xuất bản bằng tiếng Đức và tiếng Anh. Đây chính là cuốn sách mà Moskov đã đề cập tới”.

Bây giờ chúng ta lắng nghe V. I. Boldin, “người bảo quản những bí mật” - người đã bị ngồi tù vì cái lưỡi của mình: “... Vào nửa sau của những năm 1980, thái độ quan tâm tới những tài liệu này ngày càng cao. Khi đó, tôi đã giữ cương vị Vụ phó Vụ Tổng hợp của BCHTW và được báo cáo rằng những biên bản mật đang được cất giữ trong kho tư liệu. Tuy nhiên, chúng không được gói kín cũng như không hề có dấu hay ký hiệu gì đặc biệt, nên rất nhiều cán bộ lưu trữ có thể tiếp cận được với chúng. Tôi đã yêu cầu trình tài liệu đó lên cho tôi và lập tức tới chố M. X. Gorbachov báo cáo. Nếu tôi nhớ không nhầm, thì các biên bản mật đó gồm hai văn bản được Ribbentrop và Molotov phê chuẩn, một tấm bản đồ khá lớn những vùng phía tây Liên Xô và các nước liền kề có mang chữ ký của Ribbentrop và Xtalin. Chữ ký trên biên bản mật của Molotov bằng chữ La tinh. Bí ẩn chủ yếu làm cho mọi người quan tâm là nguyên nhân nghi ngờ về tính xác thực của những biên bản copy ở Đức, là không hề có. Khi thay đổi những nguyên tắc của mình, V. M. Molotov đã thực sự ký bằng chữ La tinh. Tôi nghĩ rằng điều đó không hề là tình cờ. Trong những vấn đề như vậy không thể có sự ngẫu hứng. Chắc là ông đã tính toán rằng độ tin cậy của tài liệu có thể gây nên sự nghi ngờ. Hơn nữa, Xtalin cũng không hề có ý định láu cá bởi tên của ông “I. Xt.” trên bản đồ từng hiện diện ở khắp nơi.

M. X. Gorbachov đã đọc rất kỹ biên bản và đã trải tấm bản đồ có đường biên giới cũ và mới của Liên Xô ở phía tây. Ông ta không hề ngạc nhiên về những tài liệu này, chỉ có giọng nói là thay đổi khi phải đụng chạm tới quá khứ.

- Mang đi! - ông ta kết luận.

Lúc đó, mối quan tâm trong và ngoài nước đối với những biên bản mật ngày càng cao. V. M. Falin, A. N. Iakovlev đã tìm tới tài liệu đó. Tôi đã báo cáo chuyện này với M. X. Gorbachov. Ông ta ra lệnh:

- Không nên cho ai xem hết. Ai cần - tôi sẽ nói.

Thời gian qua đi. Thế rồi tại Đại hội đại biểu nhân dân, vấn đề lại được đề cập tới về những biên bản bí mật Xô - Đức và về quan điểm của các nước cộng hòa vùng Baltik, M. X. Gorbachov bất ngờ nói với tôi rằng mọi ý định tìm kiếm bản gốc của hiệp định bí mật đã không thu được kết quả gì”.

Thế rồi khi mọi chuyện sắp qua đi thì giả thuyết về các biên bản mật lại trở thành đề tài số 1 tại Đại hội đại biểu nhân dân Liên Xô lần thứ nhất do phía những người Baltik khởi xướng. Sau đó một ủy ban do A. N. Iakovlev lãnh đạo, sau nửa năm trời tìm kiếm, đã báo cáo kết luận tại Đại hội lần hai: “Không tìm thấy các bản gốc!” và yêu cầu: “Tìm tiếp!” - rồi sau có một đêm thì thấy!...

Lịch sử ngu ngốc và lầm lạc, những đầy âm mưu với một mục tiêu duy nhất - đẩy đám đông tới tình trạng căng thẳng và cuối cùng giải quyết mỹ mãn - một kết thúc có hậu (Happy End)!
chuongxedap:

Huyền thoại về sự giúp đỡ của phương Tây. Nội dung chủ yếu của nó được kết lại trong một câu “Phương Tây sẽ giúp chúng ta”. Cầu này, như bạn đọc còn nhớ, được lấy từ cuốn tiểu thuyết “Mười hai chiếc ghế”, từng được phát ra trước các thành viên của nhóm “Thanh kiếm và Đại bàng” huyền thoại với mục tiêu duy nhất là - lật đổ chính quyền Xô Viết! Câu nói đó đối với các nhân vật của tiểu thuyết cùng như đối với chúng ta thật đê tiện. Khởi đầu của huyền thoại này là một bài báo trên tờ “Washington Post” của ngài Giám đốc Viện Phát triển quốc tế Harward Jeffr Shax nhà kinh tế học phương Tây đã đưa ra ý tưởng rằng Liên Xô, để phát triển thành công nền kinh tế quốc dân, cần đầu tư tới 30 tỷ USD. Bài báo đã được nhiều người ở Nga “nhận thức”, rồi tuyên truyền và tổ chức những chuyến viếng thăm lịch sử tới châu Âu sau chiến tranh, nơi đã thực hiện kế hoạch Marshall, để so sánh. Rồi người ta tìm kiếm sự biện minh ở cấp cao hơn: “Các bạn nghĩ rằng tôi đang làm một chuyến du lịch khắp các nước châu Âu chăng? - M. X. Gorbachov biện bạch về lý do của những chuyến viễn du thường xuyên của mình ở nước ngoài. - Các bạn lầm rồi. Tôi đang tìm kiến những khoản đầu tư, giúp đỡ về kinh tế đấy. Những người Mỹ rất quan tâm tới việc phát triển các mối quan hệ kinh tế. phương Tây không bỏ rơi chúng ta trên con đường cải cách kinh tế đâu. Điều đó không có lợi cho họ. Còn chúng ta sẽ có một thời gian ngưng chiến. Phải, chúng ta đang cần hòa bình, giải trừ quân bị”. Huyền thoại đó và những lời nói của M. X. Gorbachov - không gì khác, chỉ là sự che đậy một cuộc chiến tranh kinh tế chống lại chính chúng ta.

Sự tiếp tục huyền thoại đó nằm trong huyền thoại hiện nay về những khoản đầu tư. Đầu tư - ngay từ trong suy nghĩ đã không phải là phương thuốc trị bách bệnh, trên thực tế nó chỉ là công cụ hút kiệt máu của nền kinh tế chúng ta. Và đây là một trong những ví dụ đó: “... Nếu nhìn vào hiện trạng một cách không định kiến, thì dễ dàng nhìn thấy rằng qua 5 năm kinh tế thị trường, trong vùng đã xây nên được một mô hình kinh tế kiểu thực dân. Còn nếu nhìn một cách đơn giản hơn: - “chiếc máy hút” khổng lồ đang lôi những tài nguyên thiên nhiên không thể bù đắp lại từ dưới lòng đất của vùng của chúng ta và được chuyển ra nước ngoài. Dễ dàng nhận thấy rằng phần chủ yếu của các khoản đầu tư, mà ngài Tỉnh trưởng Zubov rất tự hào, chính là nhằm tăng công suất của “chiếc máy hút này” và khả năng xuất đi của nó. Với một nhịp độ như thế, chừng 20 năm nữa - tất cả sẽ chẳng còn gì”.

Huyền thoại về maphia. Thế nào là maphia trong cách hiểu dân dã của khái niệm này như các phương tiện thông tin đại chúng thường lý giải? Đó là cộng đồng tội phạm của những kẻ phạm tội thuộc hình thái cũ và “những người Nga mới”. Maphia Nga đã can thiệp sâu vào xã hội của chúng ta. Nếu không như vậy thì maphia không thể sống nổi lấy một ngày. Hơn nữa, maphia cũng có những mặt tốt bởi nó đem lại lợi ích nhất định cho mọi người. Xã hội thích nghi với nó một cách khách quan. Có thể dẫn ra cuốn tiểu thuyết “Bố già” của Mario Piuzo làm dẫn chứng. Maphia được coi như một chính quyền chính thức trong những trường hợp phức tạp, nhất là khi chính quyền chính thức không giải quyết nổi vấn đề nào đó.

Đương nhiên, maphia đó là sự ác độc tất yếu cần đấu tranh và điều chỉnh nó (bởi nó không thể chết). Song trút hết mọi tội ác lên đầu maphia theo cách thông thường mà cánh phóng viên vẫn thường làm (bản thân tôi cũng từng làm phóng viên và tôi biết phải làm việc đó như thế nào) chỉ có lợi cho những kẻ đã gây nên thiệt hại cho đất nước ở quy mô lớn hơn mà thôi.

Maphia đã có thể nắm phần đáng kể cổ phần của những xí nghiệp có lợi nhuận cao như Xviedlovxk, Kraxnoiarxk,... nhưng giới thượng lưu, sau khi đã tiêu hóa những gì nó chiếm được trong thời kỳ đầu, đã sắp xếp lại và cản trở maphia, không cho phép nó làm giàu một cách vô tận. Maphia, tuy khả năng có hạn chế, cũng trở thành vật cản trên con đường làm giàu bất tận của giới thượng lưu và trong hoàn cảnh hiện nay nó bị biến thành mối đe dọa, là đối tượng của các phương tiện thông tin đại chúng. Từ đầu những năm 1990, các clann thông qua những nhân viên được chúng nuôi dưỡng trong các cơ quan hành pháp đã bắt đầu “một cuộc tổng thanh lọc” để rồi chúng gây thiệt hại cho quốc gia và xã hội gấp hàng trăm lần. Các phóng viên đã có thời thổi phồng quá mức đề tài maphia và điều này đã để cho phương Tây gọi toàn bộ nước Nga là “maphia Nga”.

Huyền thoại về quốc gia hợp pháp. Học vấn cơ bản của phần lớn các cán bộ trong dây chuyền bảo vệ pháp luật là luật học. Điều bất hạnh của chúng ta chính là những nhà luật học đó. Và trong vấn đề này không có gì là đáng ngạc nhiên khi những kiến thức luật được coi là khoa học ở các cấp học, thậm chỉ cả trong các viện hàn lâm không mang một ý nghĩa luật chân chính. Đó là ngụy khoa học, là sự lừa dối tệ hại hơn cả sự dốt nát.

Trong thực tế, tôi không sao có thể hiểu nổi, cùng một hành vi phạm tội trong những hoàn cảnh giống hệt nhau - giết người, vậy mà kẻ bị tù 10 năm, kẻ chỉ bị phạt. Ai có thể lý giải được nghịch lý này? Ai sẽ giải thích điều này với thế giới?
chuongxedap:

Huyền thoại về nền dân chủ. Không ở đâu, kể cả phương Tây có một nền dân chủ lý tưởng. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa trước đây đã dân chủ hơn rất nhiều so với hiện nay - khi nó nó được biểu hiện rất nhiều trong lời nói. Một nền dân chủ đã được hóa trang sặc sỡ đủ để giết chết Liên Xô. Ngày nay nó là quyền lực của đám vô sản lưu manh (ochlos-kratos)

Ví dụ như B. N. Eltxin, sau khi tiếp nhận quyền lực đã lập tức đi theo con đường độc tài. Ban đầu là thông qua việc thành lập một bộ thống nhất về an ninh và nội vụ, sau đó là thông qua việc bắn vào Nhà Trắng (biểu tượng của “dân chủ”) và hai nghìn kẻ bảo vệ nó cùng các nhân chứng...

Vào những năm cái gọi là “công khai”, trong báo chí dân chủ thường viện dẫn lý do có lợi cho thủ tục bầu cử, như một bảo đảm cho cuộc sống hạnh phúc của cử tri - mối quan hệ hữư cơ trực tiếp giữa điều hành dân chủ với mức sống. Tất nhiên, giờ đây, sau khi đã thu được thành quả từ kiểu cách điều hành dân chủ như thế, bất cứ ai thực sự có tư duy lành mạnh cũng có thể chỉ ra sự thiếu vắng của mối quan hệ đó. Theo A. A. Zinoviev, một người từng sống khá đầy đủ trong điều kiện của nền dân chủ phương Tây, đã giải thích bản thân ý nghĩa “dân chủ” là: “...thuật ngữ “dân chủ” không phải là khoa học. Do tính chất vô định hình trong ý nghĩa và sự đa nghĩa của nó thậm chí có ngay trong khuôn khổ những bài viết của cùng một tác giả. Tôi đã gặp tới hàng chục định nghĩa về nó. Đó là thuật ngữ đặc biệt của hệ tư tưởng.

Một hiện tượng (hình thái) tư tưởng được tạo nên mang tên gọi “dân chủ” ra sao? Một số nét của nhà nước phương Tây được chọn ra. Chúng được lý tưởng hóa và được xem như là “dân chủ”. Lấy ví dụ những nét như “đa đảng”, “phân chia quyền lực”, “bầu cử”, “tính công chúng”,...

Những dấu hiệu đó được lựa chọn một cách có định hướng (thiên vị) và những hiện tượng mà nó bao hàm được lý tưởng hóa. Một lúc nào đó, các bạn có thể đã từng gặp định nghĩa về dân chủ của phương Tây mà trong đó những dấu hiệu của nó là nhà tù, đàn áp, tham nhũng, âm mưu, lừa dối cử tri,... Mà đó lại là những dấu hiệu mang tính bản chất của hệ thống quyền lực phương Tây, tồn tại trong nó một cách hữu cơ còn hơn cả những điều được tung hô về đa đảng, phân chia quyền lực. Song những nhà tư tưởng “tây hóa” của Nga lại chẳng nói về những điều đó”.

Huyền thoại về một xã hội mở. Huyền thoại này có tính hệ thống. một trong những thủ thuật tạo dựng huyền thoại - đó là đánh tráo các thuật ngữ và khái niệm. Có thể làm rõ sự đầu cơ ngay cả trong việc sử dụng thuật ngữ “xã hội mở” - đó là phản đề sang một cực khác của của “bức màn sắt” trước đây. Trong đó nhấn mạnh tác hại cơ bản mà nó đã mang lại cho Tổ quốc chúng ta bởi sự khép kín thái quá. Một hệ thống cần linh hoạt tới mức đủ để mọi cái tốt hơn thâm nhập được và giữ lại ít nhất điều tệ hại. Còn cái gọi là “xã hội mở” đối với Nga và với toàn thế giới sẽ dẫn đến việc ai đến hay đi mặc lòng, người ta mang đi hay đưa đến cái gì tùy thích, rồi kết quả là gián điệp, khủng bố, đưa các chất thải đổ vào. Nói tóm lại là mọi tiêu cực sẽ rơi vào chúng ta và ở lại với chúng ta.

Huyền thoại về nội chiến. Cuộc nội chiến mà người ta đang thường xuyên đe dọa chúng ta, không hề có lợi cho các clann từ Liên Xô cũ, cũng như cho phương Tây. Chí ít, một cuộc chiến tranh công khai toàn cầu trên hầu khắp lãnh thổ của Liên Xô hoặc Nga, như đã từng xảy ra năm 1918 - 1922. Những cuộc chiến tranh nhỏ, cục bộ có thể xảy ra. Nếu họ thực sự cần tới một cuộc chiến tranh tổng lực thì họ đã có thể triển khai không chỉ có một lần. Những công nghệ của họ cho phép thực hiện điều đó. Nhưng trong hoàn cảnh, khi mà việc chuyển các tài nguyên thiên nhiên ra nước ngoài đang được tổ chức tốt và ngày càng phát triển, còn đô la họ ních đầy túi, thì không một ai trong số họ có ý định gây chiến. Thật ra, vào bất kỳ thời điểm nào, hoàn cảnh cũng có thể bị thay đổi, thì tới lúc đó một cuộc nội chiến sẽ trở nên cần thiết đối với họ như là không khi vậy. Với sự kiềm chế bằng việc kiểm soát vũ khí tên lửa hạt nhân và nhà máy điện nguyên tử, mặc dù không thể cho rằng chính sự hiện diện của vũ khí tên lửa hạt nhân và nhà máy điện nguyên tử có thể bảo đảm cho dân chúng tránh được khả năng lý thuyết để triển khai một cuộc nội chiến. Sự chuyển đổi từ bị động sang những hành động chủ động có thể diễn ra khá nhanh chóng và hoàn toàn bất ngờ. Và nói chung, cần nhận thức rõ rằng phương Tây hoàn toàn không thể vượt quá ranh giới sang hành động chủ động trực tiếp, kể cả bằng hình thái nội chiến cũng như bằng hình thái can thiệp quân sự trực tiếp. Lý do dẫn tới điều này có thể là tất cả những gì tùy thích. Nhưng cả “ngoài” và “trong” đều hiểu rất rõ rằng điều đó chỉ cần thiết khi mọi khả năng của những hành động gián tiếp không còn nữa.

***
  
Chúng tôi kết thúc phần nói về “những kẻ tư tế” và những hiện tượng phái sinh của chúng - “những huyền thoại”. Tuy nhiên, ở đây không thể không nhắc tới vai trò nguy hiểm mà những kẻ tư tế đã làm trong việc hình thành nên phong cách và phương pháp tư duy của “tầng lớp trí thức”, khi ngay từ đầu đã biến những con người bình thường thành đối tượng của những trò chơi chính trị, thành những zombi (ma quỷ, kẻ đần độn). Vấn đề không chỉ đơn giản là sự bất công trong sở hữu thông tin, mà đó là một thảm họa trí tuệ thực sự. Đó là sự suy đồi về trí tuệ và tinh thần mà những kẻ nhất định đã cố tình đẩy cả một đám đông dân chúng rơi vào đó.

Nếu chủ thể điều hành có được những thành tựu trí tuệ mới nhất, thì khách thể điều hành trong lĩnh vực xã hội lại trở nên thiếu năng lực đối với những hành động đơn giản nhất - mọi nỗ lực đều vấp phải những trở ngại không thể vượt qua. Những con người đó không khác những thực thể vô sinh là bao; họ trở thành đối tượng của điều khiển bất kỳ một kẻ nào khác cả trong việc lựa chọn cũng như trong việc áp dụng điều khiển học xã hội; bộ máy nhận thức của họ rất hạn chế về thuật ngữ, đồng thời việc sử dụng chúng có thể mâu thuẫn với tư duy lành mạnh. Đương nhiên, trong những điều kiện như vậy, người nào có được thông tin mang tính phương pháp luận ở mức độ cao hơn thì người đó sẽ điều khiển những người còn lại phát triển theo ý của mình.

Qua nhiều năm chịu ảnh hưởng của sự tuyên truyền Xuxlov - Iakovlev, người dân bình thường đã hoàn toàn bị loại khỏi sự tiếp thu bình thường đối với thế giới và đối với những gì đang diễn ra tới mức họ đã tham gia vào chính những việc đang diễn ra và đang đem lại nguy hại cho chính mình. Người dân bình thường đó không thể hình dung ra những phạm trù mà các bộ tham mưu “cải tổ” trong nước và bên kia đại dương đang sử dụng. Họ bị tất cả những người có cuộc sống sung túc trong những năm tháng đó lợi dụng. Người dân bình thường đó đã, đang và sẽ tiếp tục bị điều khiển cho tới chừng nào chưa học được cách sử dụng những khái niệm hệ thống và lô gíc đơn giản nhất, chưa trả lời được những câu hỏi cơ bản cho chính mình.

Cho đến nay, quần chúng vẫn còn bị cấm kỵ trong tư duy những vấn đề phức tạp, năng động và mâu thuẫn về mặt bản chất của những quá trình chính trị - xã hội. Thay vì những phương pháp và quan điểm hiện đại, họ chỉ còn tư duy trong khuôn khổ nông cạn, thuần túy về mặt đạo đức. Những nạn nhân của sự tuyên truyền cộng sản cũng như dân chủ không có cơ hội để đưa ra những quyết định đúng đắn. Đến bao giờ thì điều đó sẽ kết thúc? Dường như là không bao giờ... và thậm chí điều đó chỉ ngày càng phát triển. Đây là điều mà mỗi người cần suy nghĩ một cách nghiêm túc.
chuongxedap:

Nhiệm vụ của Kriuchkov

Cho dù không nhiều, nhưng chúng ta đã nói tới con người này. Những nhà nghiên cứu mà chúng tôi tiếp cận được luôn có những đánh giá về ông ta hoặc xấu hoặc chẳng có gì. Ngoài việc V. A. Kriuchkov đã thiết lập những kênh đặc biệt với đám lãnh đạo cơ quan tình báo phương Tây, ông ta còn làm nhiều điều khác nữa. Việc ông ta đã giành được cái ghế của người lãnh đạo thứ nhất trong tổ chức tình báo chính trị duy nhất ở Liên Xô không hoàn toàn là tình cờ.

Nhiệm vụ của V. A. Kriuchkov, với tư cách là một chuyên gia tình báo, là thiết lập và tiến hành những hoạt động đơn lẻ hoặc những chiến dịch che chắn, ngụy trang. Một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của ngành tình báo là công tác phản gián nhằm phát hiện ra điệp viên thù địch ngay trong phe nhóm của mình. Chỉ có như vậy thì mới giảm được mức độ nguy hiểm cho hoạt động tình báo: một hậu phương vững chắc sẽ làm cho chính người tình báo bớt đi nguy cơ thất bại trong công tác.

Một nhiệm vụ “độc quyền” (exclusive) của V. A. Kriuchkov, ở cương vị của người thủ trưởng cơ quan tình báo và của chủ tịch KGB Liên Xô, là tiêu diệt mọi tình báo viên của CIA, những người nghiên cứu và lãnh đạo có ý định cung cấp thông tin cơ mật. Đây là việc không thể làm một mình mà cần sử dụng càng nhiều người càng tốt. Trong cuốn hồi ký của mình, V. A. Kriuchkov viết:”Trong báo cáo gửi đích danh cho tôi, một nhân viên tình báo thông báo rằng các nước tư bản chủ chốt trong thời gian gần đây rất quan tâm tới tình hình khó khăn ở Liên Xô. Điều này, - ông ta viết, - là đề cập tới việc chấm dứt sự tồn tại của quốc gia chúng ta. Còn các nguồn tin chính thống lại nói về sự kiện này như về một nguy cơ thường xuyên, bởi vậy, sau khi xem xét toàn diện, không một ai ở Matxcơva muốn cảnh báo một phát triển bi thảm như vậy của sự kiện”.

Vậy là ông ta cố tình không hiểu tại làm sao lại không thể ngăn chặn những điều đó”.

Tại phiên họp mở rộng của Xô Viết Tối cao Liên Xô,V. A. Kriuchkov đã phát biểu trước các đại biểu về thông báo của điệp viện có ảnh hưởng đó chỉ khi các sự kiện tháng 8 đã được thông qua. Bằng cách này, ông ta muốn chứng tỏ rằng mình không hề mong đợi diễn biến như vậy của sự kiện. Và chỉ sau này người ta mới bắt đầu nói tới ông ta như về chính những điệp viên mà ông ta đã từng “phanh phui”. Nhưng ông ta cũng “phanh phui” cả hoạt động của A. N. Iakovlev, cả những người mà bản thân ông ta đã rõ từ lâu: “Khi phóng viên A. Golovchenko phỏng vấn V. A. Kriuchkov, trong đó có một câu hỏi là:

“- Tuy nhiên, thưa Vladimir Alekxandrovich, còn có một giả thuyết khác về sự thất bại. Như Egor Iakovlev khẳng định rằng rạng sáng ngày 19 tháng 8 Tổng thống Nga đã từ Alma- Ata trở về sau cuộc tiếp đón đầy thịnh tình của N. Nazarbaiev (Tổng thống Cộng hòa Cazakxtan), liệu có đúng là ủy ban quốc gia về tình trạng khẩn cấp đã cùng các nhân viên KGB đã ra sân bay đón Eltxin, hộ tống ông ta “đi nghỉ” ở Zavidovo và giải thích về ý nghĩa bài phát biểu của ủy ban quốc gia về tình trạng khẩn cấp? Còn bản thân ông đã không cản trở họ tới “Nhà Trắng”?

V. A. Kriuchkov đã không phủ nhận nội dung của câu hỏi, nhưng cũng tránh trả lời. Ông ta đã lảng tránh vấn đề quan trọng, thậm chí chủ chốt - đó là liệu có phải ủy ban quốc gia về tình trạng khẩn cấp được lập ra như một trò khiêu khích để giáng một đòn chí mạng vào Liên Xô hay không?”. Mọi sự kiện xảy ra một cách vụ lợi, theo thông tin của báo “Ngày mai”, V. A. Kriuchkov cùng với M. X. Gorbachov đã được Cộng hòa liên bang Đức tặng thưởng vì đã giao nộp Cộng hòa dân chủ Đức và phá dỡ bức tường Berlin.

V. A. Kriuchkov đã hoàn thành nhiệm vụ bảo hiểm cho trường hợp kịch bản của sự kiện tháng 8 - 1991 bị thất bại. Trong mọi trường hợp, chỉ có thể lý giải như vậy về hành động của ông ta, khi dưới quyền của ông ta có những đơn vị vũ trang tinh nhuệ: 103 sư đoàn đổ bộ đường không và Sư đoàn cơ giới số 75 (theo Quyết định số 314/01 của Hội đồng An ninh quốc gia Liên Xô ngày 3 tháng 1 năm 1990); Sư đoàn cơ giới số 48 và Tiểu đoàn cơ giới độc lập số 27 (theo Quyết định số 587-82 của Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô ngày 16 tháng 6 năm 1990), còn vào tháng 4 năm 1990, theo Mệnh lệnh số 0266 của Chủ tịch KGB Liên Xô, Cục Điều hành các đơn vị đặc nhiệm KGB Liên Xô đã được thành lập. Các đơn vị này đã từng tiến hành diễn tập Tbilixi-89, Baku-90 và Vinhius-91 nhằm mô phỏng hành động đàn áp các đám đông gây rối.

Có thể dẫn ra một ví dụ rất quen thuộc - một sĩ quan phản gián (V. Koroliov) thông báo rằng: “... Hầu hết các điệp viên của tình báo nước ngoài trong số các công dân Xô Viết đã bị phát hiện không phải do hệ thống các biện pháp phản gián. Khác với nước ngoài, Liên Xô không hề có hệ thống các biện pháp phản gián. Sinh thời, Tướng Grigorenko, cựu chỉ huy của Tổng cục 2 KGB Liên Xô đã từng cố gắng hoạch địch và áp dụng hệ thống đó. Nhưng vào đầu thập kỷ 1980 ông đã bị cách chức do vị cấp phó của ông bị buộc tội làm gián điệp. Khi tôi cố gắng làm một điều gì đó tương tự trong lĩnh vực công tác của mình, ban lãnh đạo của Cục 2 đã đưa tôi ra để giễu cợt và gọi những dự định như vậy của Grigorenko là trò lẩm cẩm của một lão già”.

Nếu như chúng ta được phép giả định rằng giá như số phận đã cho phép Tướng Grigorenko Fedorovich Grigori áp dụng một hệ thống như thế và nó được những người có trách nhiệm thực hiện, thì sẽ không có bất cứ một “cải tổ” nào có thể xảy ra...
chuongxedap:

Những điệp viên có thế lực

Chúng ta đã tuân thủ một đạo đức hai và ba mặt.
               A. N. Iakovlev
Liệu người Xô Viết có thể chọn cho mình một Tổ quốc mới?
               O. A. Troianovxki


“Cán bộ là cái gốc của mọi công việc” (Nguyên văn: những người cán bộ giải quyết mọi việc), - I. V. Xtalin, người đầu tiên đấu tranh với nguy cơ bên trong, đã nói câu châm ngôn nổi tiếng đó vào những năm 1930. Đến nay, câu châm ngôn đó dường như đã bị lãng quên, nhưng tính cấp thiết của nó ngày càng tăng cao. Phương Tây đã tự đặt cho mình nhiệm vụ hiện thực hóa châm ngôn đó trong đất nước chúng ta theo hướng có lợi cho họ. Điều đó được thể hiện bằng việc phương Tây đã thiết lập được một phân hiệu của nó ngay trên lãnh thổ Liên Xô. Kể từ đó nhân dân Liên Xô đã trở thành con tin của một sự phản bội to lớn nhất trong lịch sử thế giới. Nhân dân Liên Xô đã bị hành hạ, bị đẩy ra khỏi mảnh đất của mình và cuối cùng đã bị tiêu diệt. Hoàn cảnh lịch sử của nửa đầu thế kỷ XX đã được lặp lại, khi trong nước Nga xuất hiện những phần tử xa lạ với cội nguồn của mình. Vào những năm 1930, chúng đã bị nhổ bỏ, nhưng không hết, để rồi đến nay lại ngóc đầu dậy.

Theo nhiều nhà nghiên cứu khác, Đảng Cộng sản đã đóng một vai trò đặc biệt trong việc hình thành “hoạt động hậu trường”. Đảng “... cũng chỉ là một hội Tam điểm (Mason lose), nhưng chỉ có ban lãnh đạo của nó mới biết được điều này. Hàng triệu đảng viên thường đã mù quáng để giới cao cấp lợi dụng... Chỉ những kẻ đê tiện đã từng tiến thân theo các bậc thang của đảng mới thấu hiểu bản chất tam điểm của giới lãnh đạo ĐCS Liên Xô“. Theo đó, hệ thống thứ bậc trong ĐCS Liên Xô cũng bao gồm 33 cấp như trong hội Tam điểm, đó là:

330 - Tổng bí thư BCHTW ĐCS Liên Xô;
320 - ủy viên Bộ Chính trị BCHTW ĐCS Liên Xô;
310 - ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị BCHTW ĐCS Liên Xô;
300 - Bí thư BCHTW ĐCS Liên Xô;
290 - ủy viên BCHTW ĐCS Liên Xô;
280 - ủy viên dự khuyết BCHTW ĐCS Liên Xô;
270 - Bí thư thứ nhất BCHTW ĐCS nước cộng hòa;
260 - ủy viên Bộ Chính trị BCHTW ĐCS nước cộng hòa;
250 - ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị BCHTW ĐCS nước cộng hòa;
240 - Bí thư BCHTW ĐCS nước cộng hòa;
230 - ủy viên BCHTW ĐCS nước cộng hòa;
220 - ủy viên dự khuyết BCHTW ĐCS nước cộng hòa;
210 - Bí thư thứ nhất tỉnh ủy (khu ủy) nước cộng hòa;
200 - Bí thư tỉnh ủy (khu ủy) nước cộng hòa;
190 - Đảng ủy viên đảng bộ tỉnh ủy (khu ủy) nước cộng hòa;
180 - Đảng ủy viên dự khuyết đảng bộ tỉnh ủy (khu ủy) nước cộng hòa;
170 - Bí thư thứ nhất đảng bộ vùng (địa hạt) khu tự trị;
160 - Bí thư đảng bộ vùng (địa hạt) khu tự trị;
150 - Đảng ủy viên đảng bộ vùng (địa hạt) khu tự trị;
140 - Đảng ủy viên dự khuyết đảng bộ vùng (địa hạt) khu tự trị;
130 - Bí thư thứ nhất thành ủy;
120 - Bí thư thành ủy;
110 - Đảng ủy viên thành ủy;
100 - Đảng ủy viên dự khuyết thành ủy;
90 - Bí thư thứ nhất quận (huyện) ủy;
80 - Bí thư quận (huyện) ủy;
70 - Đảng ủy viên quận (huyện) ủy;
60 - Đảng ủy viên dự khuyết quận (huyện) ủy;
50 - Bí thư đảng ủy (Ban Chấp hành đảng bộ cơ sở);
40 - Đảng ủy viên (Ban Chấp hành đảng bộ cơ sở);
30 - Bí thư chi bộ đảng cơ sở ;
20 - Chi ủy viên chi bộ đảng cơ sở ;
10 - Đảng viên ĐCS Liên Xô.

Bản thân thuật ngữ “điệp viên có thế lực” cũng có những định nghĩa khác nhau và mới xuất hiện trên báo chí, nên còn nhiều người, nếu không được giải thích, sẽ không thể hiểu đó là thế nào. Trong nhận thức của nhiều người, “điệp viên có thế lực” được hiểu là “điệp viên CIA”, “điệp viên của chủ nghĩa đế quốc” hay là “gián điệp Anh”. Thật may là lịch sử còn lưu giữ tất cả những gì có liên quan tới thuật ngữ này. “Điệp viên có thế lực” không phải bao giờ cũng là gián điệp hay là tội phạm hình sự. Nó không hề thích hợp với kẻ tội phạm. Mà hơn thế, đôi khi nó tin tưởng một cách thiêng liêng vào những gì nó đang làm và tự cho rằng những hành vi của nó là vì lợi ích của Tổ quốc.

“Điệp viên có thế lực - đó là một phạm trù mở không có những ranh giới rõ ràng”.

“Điệp viên có thế lực - đó là:

1- nhân vật có địa vị (hoặc là nhân vật được xã hội tín nhiệm và tin cậy), thực hiện hoạt động mang tính hệ thống nhằm hiện thực hóa những mục tiêu chính trị của các quốc gia nước ngoài (về mặt hình thức, không phải là cộng tác viên của các cơ quan tình báo nước ngoài);

2- Người hoạt động xã hội tiến hành đường lối của một đảng phái hay của một tổ chức trong môi trường không thuộc về cơ cấu của nó”.

“Điệp viên có thế lực - đó là công dân của một quốc gia lợi dụng cương vị công vụ của mình ở cấp cao trong cơ cấu chính quyền (trong lãnh đạo đất nước, trong đảng phái chính trị, trong quốc hội hoặc nghị viện, trong cơ quan thông tin đại chúng, cũng như trong lĩnh vực khoa học, văn hóa, nghệ thuật...) để hành động vì lợi ích của một quốc gia khác”.

Do tính chất mở của thuật ngữ và ý nghĩa thực dụng của nó, người ta dễ có ấn tượng rằng “điệp viên có thế lực” trước hết là phụ thuộc trực tiếp vào ý chí của Mỹ và là chủ thể điều hành của nó. Điều này không hẳn như vậy. Phía “Xô Viết” - phân theo dấu hiệu địa lý - trong phái “những nhà cách mạng cộng đồng” là đối tác bình đẳng tuyệt đối về mọi mặt với “bên ngoài”, đặc biệt là với Mỹ (và cùng với nó là phương Tây và Israel). Còn việc M. X. Gorbachov vào cuối “giai đoạn Xô Viết của cuộc cách mạng” bị tước bỏ quyền lực, V. A. Kriuchkov phải ngồi “trong im lặng” thì đó là “việc cần phải thế” theo kịch bản, và rốt cuộc, để bù đắp “tổn thất về mặt tinh thần” thì họ đã được tưởng thưởng bằng cách này hay cách khác.

Đương nhiên là bản thân thuật ngữ và thực tiễn của “điệp viên có thế lực” có một lịch sử lâu dài: “Thuật ngữ “điệp viên có thế lực” được Đô đốc Canaris1 - một tình báo viên rất giỏi và là tay tổ trong các vụ khiêu khích, - sử dụng vào năm 1943. Kể từ đó, thuật ngữ này được sử dụng thường xuyên trong các văn bản chuyên ngành, trong các chương trình huấn luyện của nhiều trung tâm tình báo phương Tây”. Thành công vào năm 1943 của nhà lãnh đạo tình báo quân đội Đức thật đáng nể: cuộc diễu binh toàn thắng của quân đội Hít le trong toàn bộ lãnh thổ châu Âu mà không gặp phải một sự kháng cự đáng kể nào, trước hết, là do ở mỗi nước đó, bắt đầu từ Tây Ban Nha, “đội quân thứ 5” đã hoạt động rất tích cực. Và trận đánh khốc liệt nhằm giành giật từng tấc đất trên lãnh thổ Xô Viết đã diễn ra cũng chính bởi I. V. Xtalin trước đó đã tiêu diệt hết “kẻ thù của nhân dân”.

Tập hợp từ “điệp viên có thế lực” đã được Chủ tịch KGB Liên Xô V. A. Kriuchkov đưa vào vòng xoáy hiện đại. Phát biểu tại phiên họp mở rộng của Xô Viết Tối cao Liên Xô ngày 17 tháng 6 năm 1991, ông ta đã công bố một tư liệu mật của BCHTW ĐCS Liên Xô Liên Xô đề ngày 24 tháng 1 năm 1977: “Theo tin tức đáng tin cậy của ủy ban An ninh quốc gia, thời gian gần đây, CIA Mỹ, trên cơ sở phân tích và dự báo từ các chuyên gia của mình về những con đường phát triển sắt tới của Liên Xô, đang triển khai những kế hoạch đẩy mạnh hoạt động thù địch nhằm phân hóa xã hội Xô Viết và làm rối loạn nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Với những mục tiêu đó, tình báo Mỹ đặt ra kế hoạch sẽ tuyển mộ những điệp viên có thế lực trong số các công dân Xô Viết, tiến hành đào tạo họ và tiếp tục can thiệp vào lĩnh vực điều hành chính trị, kinh tế và khoa học của Liên Xô.
__________________________________
1. Friedrich Wilhelm Canaris, 1887 - 1945, từng lãnh đạo cơ quan tình báo đức tại Tây Ban Nha trong Chiến tranh thế giới I; từ năm 1935 - 1944 là Chỉ huy trưởng Cơ quan Tình báo và Phản gián của Đức phát xít - Abwehr; bị tử hình vào năm 1944 vì tham gia vào âm mưu chống Hit le. - ND
CIA đã vạch ra những chương trình đào tạo những điệp viên có thế lực nhằm tạo cho họ có những kỹ năng hoạt động gián điệp, cũng như tác động tới tư tưởng và chính trị của họ. Ngoài ra, một trong những khía cạnh quan trọng nhất của việc đào tạo những điệp viên này là truyền đạt những phương pháp điều hành trong nhân tố lãnh đạo nền kinh tế quốc dân.

Ban lãnh đạo tình báo Mỹ đang kiên quyết lập một kế hoạch có mục tiêu rõ ràng, không tính toán tới chi phí, nhằm tìm kiếm những nhân vật có đủ khả năng về những phẩm chất cá nhân cũng như trong công vụ mà tương lai sẽ có những chức vụ trong bộ máy điều hành, đồng thời có thể hoàn thành được những nhiệm vụ mà kẻ thù giao cho. Trong đó, xuất phát từ việc hoạt động của những điệp viên có thế lực là riêng lẻ không liên quan lẫn nhau nhằm tiến hành đường lối phá hoại ngầm và làm sai lệch những chỉ thị của lãnh đạo, CIA sẽ hoạch định vào một trung tâm duy nhất được thiết lập trong khuôn khổ của tình báo Mỹ.

Theo ý đồ của CIA, hoạt động có mục đích của điệp viên có thế lực sẽ góp phần tạo ra những khó khăn nhất định trong chính sách đối nội của Liên Xô, sẽ kiềm chế sự phát triển của nền kinh tế chúng ta, sẽ đưa những phát kiến khoa học ở Liên Xô vào hướng bế tắc. Trong quá trình soạn ra những kế hoạch trên, tình báo Mỹ xuất phát từ việc các cuộc tiếp xúc ngày càng tăng giữa Liên Xô với phương Tây đang tạo ra những tiền đề thuận lợi để các kế hoạch đó được hiện thực hoá trong điều kiện hiện nay.

Theo những tuyên bố của các nhân viên tình báo Mỹ từng làm việc trực tiếp với loại điệp viên này trong số công dân Liên Xô, chương trình hiện đang được các cơ quan tình báo Mỹ tiến hành sẽ góp phần tạo ra những thay đổi về chất lượng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội chúng ta, trước hết là trong lĩnh vực kinh tế, rút cuộc điều đó sẽ dẫn tới việc Liên Xô phải chấp thuận nhiều ý tưởng của phương Tây.

KGB đang nghiên cứu thông tin này để tổ chức các biện pháp nhằm phát hiện và ngăn chặn các kế hoạch của tình báo Mỹ” (Biên bản KGB Liên Xô tại BCHTW ĐCS Liên Xô “về những kế hoạch của CIA nhằm có được những điệp viên có thế lực trong các công dân Xô Viết”)1. Những người thạo tin khẳng định rằng kèm theo tài liệu này có một phụ lục danh sách các nhân vật liên quan. Tuy nhiên, cho đến nay phụ lục đó vẫn chưa được công bố.

Điệp viên có thế lực sẽ không còn ý nghĩa gì khi ngừng hoạt động. Đây cũng là điều thường xảy ra trong tình báo thông thường. Những nhiệm vụ của chúng là: Điệp viên có thế lực thường lập tức thực hiện nhiệm vụ được giao ngay sau khi được tuyển mộ: “Những dấu hiệu đặc trưng của mọi điệp viên có thế lực là:

Thứ nhất, khả năng tác động vào nhận thức xã hội trong đất nước của mình. Nó sâu rộng và được lan truyền trong toàn bộ lãnh thổ, tới mọi tầng lớp xã hội, đồng thời có thể ở mức cục bộ trong không gian, trong các phương thức, chủ thể và khách thể tác động.

Thứ hai, tham gia ổn định vào một mạng lưới nhất định. Có thể bản thân họ không hay biết về điều này, cho dù có khá nhiều người có thể đoán ra. Điệp viên có thế lực - luôn luôn chỉ là một con ốc trong một cỗ máy “làm chính trị” phức tạp.

Thứ ba, có điều kiện khách quan để đạt được những mục tiêu được “chủ nhân” giao cho bằng những hoạt động của mình. Trong một giai đoạn nhất định, những mục tiêu đó có thể cũng phù hợp với những lợi ích riêng của chúng ta - như tính công khai, dân chủ hoá, quyền con người và những lời nói hào nhoáng. Trong nhiều trường hợp, những điệp viên có thế lực có thể sẽ biết được mục đích cuối cùng, nhưng chỉ ở dạng chung nhất, và điều đó chỉ chứng tỏ rằng có cấp điều hành cao hơn thế đang sử dụng chính “chủ nhân” như một con tốt.

Thứ tư, học tập bắt buộc. Điều này không đề cập tới việc học tập ở phổ thông, các bài giảng hay các kỳ thi tuyển. Việc học tập này có thể theo nhóm hoặc cá nhân. Các điệp viên kém phát triển được triệu tập hoặc tự chạy “các thầy, thợ” giỏi. Các hình thức học rất đa dạng và phong phú: từ những bài tập điển hình đến các buổi tâm tình bên bàn rượu, có các cẩm nang hướng dẫn, có người kèm cặp.

Thứ năm, tùy thuộc vào số lượng người hoạt động “hậu trường”. Điệp viên càng mạnh thì càng ẩn nấp sâu. Đó là “những kẻ làm chính trị giấu mặt”, “những giáo chủ xám”, họ không cầm quyền mà chỉ định hướng. Nếu vì một nguyên nhân nào đó họ phải xuất đầu lộ diện, thì thông thường, chỉ trong một thời gian rất ngắn.

Thứ sáu, thái độ trung thành với lý tưởng nào đó, thường là với những phạm trù trừu tượng như: dân chủ, những giá trị chung của nhân loại, những thành tựu của nền văn minh thế giới... Mọi người đều biết đó là cái gì, song chưa một ai có thể diễn tả một cách chính xác điều đó bằng ngôn ngữ”.

Cuộc đấu tranh với các nhà văn và các nhóm người yêu nước Nga (về những quan điểm, chứ không phải về việc cấp visa) chỉ là phép thử (nguyên văn: tờ giấy quỳ) đối với các “Điệp viên có thế lực” trong việc phân định “địch - ta” và “quán tính”. Công lao trong cuộc đấu tranh với “chủ nghĩa Nga” càng lớn, thì cơ hội leo lên một vị trí xứng đáng với “những công lao” trong nấc thang danh vọng của thời cải tổ càng nhiều.

“Điệp viên có thế lực” thực sự đã trở thành một cơ cấu phi thực chủ yếu của quốc gia Xô Viết. Do tập hợp được nhiều cương vị, mà chúng đã trở thành những người không thể thay thế được. Trong các nhiệm vụ vụ của chúng có việc “làm tịt” những chức năng của nhà nước, làm thay đổi đường lối lãnh đạo đất nước, và cuối cùng là thay đổi những tư duy lành mạnh. Thoạt đầu chúng thận trọng nghe ngóng, cân nhắc, sau đó tiến đến giành chiếc “ghế” cần thiết. Bản thân những vị trí này càng quan trọng bao nhiêu, thì khả năng thông qua những mối quan hệ chính thức và không chính thức của chúng càng lớn bấy nhiêu. Theo chúng tôi, nếu là con đường “công khai” thì đó là cương vị bộ trưởng bộ quốc phòng, còn nếu “bí mật” thì đó là cương vị lãnh đạo cơ quan tình báo.

“Nhiệm vụ của các điệp viên có thế lực, tuỳ thuộc vào cương vị từng người, là che đậy những mục tiêu đích thực của “chiến tranh lạnh”... chú ý bảo vệ những người chống đối chế độ trong trường hợp những người đó bị phát hiện, biện hộ cho những hành động phá hoại làm mất ổn định tình hình trong nước, xúi giục việc phê phán chống lại hệ thống xã hội chủ nghĩa”.

Sự khác biệt giữa “điệp viên có thế lực” và điệp viên thường tương đối lớn. “Điệp viên có thế lực” luôn hành động sao cho có thể dễ dàng bào chữa được lời buộc tội họ - hoạt động của họ thường có ít nhất tới hai khả năng giải thích. Họ làm tất cả mọi chuyện hoặc “có lợi” cho đất nước mình, hoặc hành động đó không thể bị coi là phạm tội, mà vì động cơ chính trị rất tế nhị. Bất cứ một nhân viên phản gián nào, cho dù sáng suốt và tài năng nhất, cũng sẽ phải chào thua họ. Cách buộc tội truyền thống tỏ ra thiếu bằng chứng, và không thể buộc tội họ theo linh cảm.
__________________________________
1. V. A. Kriuchkov, Hồ sơ cá nhân. Thế kỷ XX trong con mắt của những nhân chứng, 2 tập, Nxb. Olimp Matxcơva, 1996.
chuongxedap:

Cho dù những tân binh mới tuyển mộ đã từng được đào tạo tốt đến đâu, song “những chức năng” mới của họ vẫn đòi hỏi họ phải được đào tạo thêm. Thái độ sẵn sàng xử sự tàn nhẫn được coi như một tài năng đặc biệt. Sau khi được tập huấn tại các trung tâm “... Không một ai trong số họ che dấu mục tiêu tiêu diệt chính quốc gia mà họ là công dân của nó, hơn nữa, họ phải làm một cách tích cực nhất để đạt mục tiêu đó. Nhiều người đã từng biết tới một vị dân biểu Liên Xô, (ủy viên Hội đồng Phối hợp nhóm đại biểu liên khu vực, vào những năm 1990 - 1993 đã từng giữ nhiều trọng trách trong cơ cấu chính quyền Nga; chức vụ cuối cùng của ông ta là lãnh đạo nhóm các cố vấn của Tổng thống Eltxin và hiện nay là đại biểu Đuma Nga) khi ông ta nói tại hành lang Xô Viết Tối cao Liên Xô rằng: “Đế chế phải bị diệt vong”. Điều đáng nói là ông ta mở đầu bằng việc nhấn mạnh vai trò đoàn kết của đảng trong quá trình cải tổ, để lập tức sau đó quên ngay điều đó để nói “về đế chế”.

Điều này cho chúng ta thấy rằng, mỗi người trong số họ trước đây đã từng được đào tạo về “đạo đức” trong dây chuyền chung: “...Một bộ phận dân chúng Liên Xô, khi bị tha hóa về đạo đức và lý tưởng, đã trở thành lực lượng chủ yếu và là chỗ dựa của phản cách mạng. Họ trở nên có tình cảm thân phương Tây và rất khát khao có được điều kiện sinh hoạt như ở phương Tây và đang gắng sức giữ gìn những gì họ đã có. Yếu tố này đã trở thành một trong những điều kiện quan trọng nhất để phản cách mạng giành được thành công”. Chính bộ phận bị tha hóa trong giới quyền lực cao cấp - những kẻ không hề có một tí cội rễ dân tộc nào, những kẻ chỉ tôn trọng quyền lực và những lợi ích thiết thân của chúng - đã trở thành môi trường nuôi dưỡng của “đội quân thứ 5”: “Rất khó đánh giá một cách thuần túy rằng trung tâm nào là hàng đầu. Nhưng, xét theo những dấu hiệu nhất định, có thể phân ra 3 cực của chủ nghĩa toàn thế giới (Mondialism) dưới thời Khrusov trong xã hội, đã từng được điều chỉnh lại sau những cuộc thanh trừng cuối cùng của Xtalin.

Một là, giới các nhà khoa học vật lý nguyên tử, trong đó nhân vật Viện sĩ Xakharov đóng vai trò then chốt. Xét mọi dấu hiệu, Andrey Dmitrievich Xakharov có gắn bó chặt chẽ với các nhà khoa học mang khuynh hướng toàn thế giới ngay từ giai đoạn đầu tiên trong con đường làm khoa học của mình, khi những người tgm vào dự án vũ khí nguyên tử với một quan điểm rất rõ ràng của chủ nghĩa toàn thế giới.

Hai là, có thể khẳng định rằng, sau khi tiêu diệt bộ máy của Beria và sau những cuộc thanh lọc của chế độ Khrusov mới, vẫn có những cơ cấu nào đó được bảo lưu trong lòng cơ quan an ninh và tiếp tục chống lại những thế hệ chiến sĩ Chêka tiền bối. Qua những dấu hiệu gián tiếp, có thể ghi nhận được mối liên hệ của những nhóm Chêka theo chủ nghĩa toàn thế giới ngay từ những năm trong và sau chiến tranh với việc thành lập Cục 5 KGB Liên Xô vào đầu những năm 1960 do một nhân vật đáng sợ là Filipp Denixov Bobkov lãnh đạo (người sau này đã trở thành cấp phó của Chủ tịch KGB Liên Xô Kriuchkov). Thật đáng tò mò, khi giờ đây Filipp Bobkov trở thành lãnh đạo của nhóm an ninh MOST và trưởng nhóm này là Vladimir Guxinxki, đồng thời là Chủ tịch Hội đồng Châu Âu của Nga.

Ba là, và đây là điều đáng ngạc nhiên nhất, các trào lưu của chủ nghĩa toàn thế giới vẫn được duy trì trong một bộ phận nhất định của dân Do Thái ở Liên Xô và mang khuynh hướng Xionit. Rõ ràng là môi trường này đã được ấn định một cách tự nhiên đối với những tình cảm đó, đặc biệt là sau khi có nhiều người Do Thái ởam thấy thất vọng về chế độ Xô Viết, khi một Nhà nước Israel ra đời, khi khuynh hướng chống Xionit ở Liên Xô được củng cố vào cuối những năm 1940 - đầu những năm 1950”.

Về vấn đề này, một loạt các nhà nghiên cứu đã đưa ra những đánh giá nghiêm khắc nhất đối với nhiều nhân vật nổi tiếng trong một phần tư cuối cùng thế kỷ XX: “Những đại diện tiêu biểu nhất của “đội quân thứ 5” trong những năm gần đây là: N. X. Khrusov, M. A. Xuxlov, P. N. Poxpelov, B. N. Ponomariov, Iu. V. Andropov, A. N. Iakovlev... Bọn chúng đã “kết tổ” trong bộ máy của đảng.

Một bộ phận khác được hình thành trong hệ thống Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô. Đầu tiên, Viện Nghiên cứu kinh tế thế giới do Lênin sáng lập đã trở thành mái nhà bí mật của “đội quân thứ 5”. Lênin đã bổ nhiệm E. X. Varga - một người Do Thái gốc Hunggari theo chủ nghĩa quốc tế - làm viện trưởng. Đến năm 1947, cái tổ những kẻ Xionit Liên Xô đã bị Xtalin tiêu diệt. Vào năm 1956, nó lại được Khrusov khôi phục với tên gọi là Viện Nghiên cứu kinh tế thế giới và quan hệ quốc tế. Sau đó, vào đầu những năm 1970, các viện nghiên cứu đã mọc lên như nấm sau cơn mưa: Viện Mỹ và Canada; Viện Nghiên cứu châu Âu; Viện á - Phi; Viện Mỹ - La tinh; ... Tổ chức của những viện “mang tính chất đất nước học” đã cho phép các nhân viên của mình thoải mái đi ra nước ngoài công tác “để trao đổi kinh nghiệm”, còn về thực chất là để nhận sự chỉ dẫn và hoạt động phá hoại ngầm.

Để tạo ra sự khoe mẽ về những nghiên cứu khoa học của mình, họ đã được gắn những học vị khoa học, thậm chí viện sĩ.

Trong hệ thống của Viện Hàn lâm khoa học còn có một nhóm các viện sĩ khác hoạt động song song, đó là: A. D. Xakharov, E. P. Velikhov, V. I. Golldanxki, R. Z. Xagdaiev, V. L. Ginzburg, Iu. A. Oxipian, cho dù họ chưa có đủ các học vị khoa học. Vào cuối những năm 1970 - đầu những năm 1980, với sự giúp đỡ từ những “người của mình” trong bộ máy đảng, họ đã thâm nhập được vào ban lãnh đạo của đảng là BCHTW. Sau khi Xtalin mất, những kẻ do Khrusov cơ cấu vào BCHTW đã đưa thủ lĩnh của “đội quân thứ 5” là A. N. Iakovlev vào BCHTW - con người này đã kéo theo mình cả một đống những kẻ căm thù nước Nga như: Arbatov, Sakhnazarov, Bunhich, Aganbekian, Zaslavxkaia, Abalkin, Gaidar...”

Alekxandr Urmanov - “người của vùng Ekaterinburg, vợ và con trai ông ta đến nay vẫn sống tại đó. Tiến sĩ toán - lý. Từng lãnh đạo chiến dịch bầu cử của Eltxin tại Ekaterinburg. Từng sử dụng thông tin của Viện Kribl để giúp cho Boris Eltxin được bầu vào nghị viện và sau này vào chiếc ghế Tổng thống. Ông ta cũng đã sử dụng các tư liệu của viện để điều hành nhóm của Boris Eltxin đang hoạt động trong nghị viện Nga”

“Xung quanh Xovchak tập hợp khoảng chừng 30 cố vấn nước ngoài tài năng nhận lương từ ngân sách. Họ thực sự là những nhân viên CIA. Bạn thử nghĩ xem, tại sao một kẻ lừng danh như Richard Torrens lại bỏ ra hàng giờ để nói với tôi về một đề tài rất xa với văn hóa? Tại sao Xovchak lại cần một vị cố vấn không hề đưa ra lời khuyên nào mà chỉ toàn tra hỏi? Do đã từng nghiên cứu về tâm lý, lý thuyết giao tiếp, nên tôi hiểu rất rõ rằng người ta đang kiểm tra tôi, đang tiến hành lựa chọn cán bộ như đã từng làm với bao người khác”

Một điệp viên có thể bị hạn chế về mặt tri thức, song do tính chất của công việc bí mật, họ có thể tiếp xúc được với những nhân vật thạo tin nhất, họ có được một hệ thống dịch vụ về kiến thức của những người có học vấn chuyên ngành, thường xuyên có được thông tin về những thành công hay thất bại của “những dòng chảy ngầm”.
chuongxedap:

Về nguyên tắc, mỗi lực lượng chính trị trong nước đều có danh sách riêng của mình về những điệp viên có thế lực. Như tại Đại hội đại biểu nhân dân lần thứ VII của Nga, người ta đã công bố những danh sách các đại biểu mà “các nhà dân chủ” có thể tin cậy và cần phải “làm việc” với họ. Người ta có thể rút ra một nguồn tư liệu như thế từ “cuốn từ điển những nhân vật đã bị phát giác có liên quan tới Hội tam điểm và các tổ chức khác được lập ra để thực hiện các mục tiêu của Hội Tam điểm (từ năm 1945 đến năm 2000)” của O. A. Platonov.

Ngoài ra, còn có danh sách của Nhóm đại biểu liên vùng trong số các đại biểu nhân dân Liên Xô,... nhiều nhân chứng khẳng định: “Qua những cuộc trò chuyện với những người đã từng nhìn thấy các danh sách này, tôi biết rằng trong đó có tên của những tổ chức tài chính lớn nhất, các nghị sĩ, nhà ngoại giao, những người lãnh đạo khối thông tin đại chúng, các chính khách, nhà báo nổi tiếng nhất. Xuyên suốt toàn bộ danh sách là một tuyến điệp viên. Việc đăng tải bản danh sách này sẽ có thể gây nên một vụ bê bối chính trị lớn nhất và hoàn toàn xóa bỏ chế độ Eltxin. Phương Tây sẽ phải tìm kiếm lời giải thích về việc tại sao họ ủng hộ các chính khách vốn từng là những người thạo tin “kinh khủng” của KGB. Dân chúng có thể thỏa mãn vì họ đang đối đầu với không chỉ KGB, mà cả những điệp viên của CIA và MOSSAD”. Cũng chính vì thế mà danh sách đã không được tiết lộ.

CIA Mỹ và những tổ chức theo chủ nghĩa toàn thế giới đã từng làm việc từ rất lâu với đám điệp viên để khi tới giờ “G” họ có thể sử dụng chúng một cách tích cực nhất. Và thời điểm đó đã tới khi R. Reagan lên làm Tổng thống Mỹ: “Casy đã báo cáo với Reagan tin tình báo về tính chất của những hoạt động phá hoại ngầm chống Liên Xô, về hoạt động của Văn phòng tình báo của Ba Lan đặt tại Matxcơva và Lêningrad, cũng như những tin tình báo tuyệt mật về vị trí của các điệp viện có thế lực đang nằm trong các cơ cấu của nhà nước Liên Xô.

Giám đốc CIA nhận định: “Đã tới thời điểm thuận lợi để gây cho Xô Viết những tổn thất thật sự và sự hỗn loạn trong nền kinh tế của họ. Giờ đây cần nắm quyền kiểm soát và tác động đối với sự phát triển tiếp theo của các sự kiện trong xã hội và trong quốc gia”. Tất cả những điều đó, đương nhiên, là vì những lợi ích quốc gia của Mỹ.

Reagan đã khái quát rằng: “Cần có những biện pháp mạnh mẽ cho vấn đề này”. Cụ thể là những biện pháp gì? Casy Viết: “Tôi cho rằng cần tới tình báo, những chiến dịch bí mật, phong trào chống đối có tổ chức... Chúng ta cần có vài Afghanistan”.

... Bây giờ đã tới lúc kể chuyện khôi hài. Năm 1990, các tướng lĩnh của KGB và CIA ngồi theo dõi Hội nghị đại biểu nhân dân qua truyền hình. Phía Xô Viết xem tài liệu gì đó rồi kêu lên: “Thưa quý ngài, vậy người “của chúng tôi” là bao nhiêu!”. Người Mỹ bấm máy tính và tuyên bố: “Người của chúng tôi đông hơn!”.

Các “Điệp viên có thế lực”, nếu không giải quyết nhiệm vụ “đầu tiên” (tiền đâu) của mình thì không thể kiếm được tiền cho những công việc bí mật của mình. Và số tiền đó được cung cấp từ nước ngoài, đồng thời được gửi tại các ngân hàng bí mật trong nước để họ sử dụng vào những hoạt động của mình.

Sau vụ động đất tại Armeni, một số lượng lớn vật chất ủng hộ được đưa vào nước cộng hòa này - các vật liệu xây dựng, các vật dụng thiết yếu cho sinh hoạt, tiền trợ cấp. Phần lớn số đó đã mất tăm. Trách nhiệm hỗ trợ và khắc phục thảm họa ở Armeni đã được giao cho viên Bí thư thứ hai BCHTW ĐCS Armeni là O. I. Lobov - một kẻ được B. N. Eltxin đỡ đầu vào cương vị Vụ trưởng Vụ xây dựng của ĐCS Liên Xô ở Xverdlovxk. Sự viện trợ nhân đạo từ phương Tây cho Armeni đều bị sử dụng sai mục đích. Có nguồn tin cho rằng gần 70% trong số đó đã được dùng vào việc đổi lấy vũ khí cho Nagornyi Karabakh.

Chúng ta cũng nên quan tâm tới việc hình thành và hoạt động của Quỹ Văn hóa Liên Xô. Vị Chủ tịch của nó là D. X. Likhachov, và một trong những nhà lãnh đạo của nó là R. M. Gorbachov. Trong thời kỳ cải tổ, đã từng có một tổ chức như vậy là Quỹ “Ogonhiok” - chống HIV và AIDS, từng đượcthành lập nên sau một bức thư khiêm tốn của B. N. Eltxin gửi tới tòa soạn của tạp chí “Ogonhiok”. Một trong số thành viên của Hội đồng quản trị Quỹ là ngài E. M. Albast mà chúng ta đã nhắc tới ở trên. Trong mọi trường hợp, tổ chức này được thành lập cho riêng Eltxin để ông ta có thể sang Mỹ: “Vào tháng 9 năm 1989, Eltxin sang Mỹ bằng tiền của Quỹ Nghiên cứu và điều trị AIDS ở Liên Xô và của Viện Nghiên cứu California Esalen”. Chuyến viếng thăm tiếp đó của ông ta được bên tiếp đón chịu chi phí: “ Một tổ chức rất ít tiếng tăm của Pháp là “Forum International de Politic” đã đứng ra mời B. Eltxin và chấp nhận mọi phí tổn để tiếp đón ông ta như một nguyên thủ quốc gia”. Đây là một tổ chức được Jan Hellenstain thành lập vào năm 1983. Trước năm 1980, con người này đã từng nằm trong ban lãnh đạo của ĐCS Pháp và có một thời nổi danh như một nhà mác-xit chính thống. Nhưng từ năm 1980, ông ta làm cho tất cả mọi người bất ngờ, tựa như nhận được mệnh lệnh, khi trở thành “nhà cải cách” và sau đó đã ra khỏi đảng... Trong thời gian viếng thăm Pháp, B. N. Eltxin đã công khai tiếp xúc với đài phát thanh “Tự do” và các chủ xí nghiệp do tình báo Anh - Mỹ dựng nên.

“Thành tựu kỹ thuật thực sự của Alekxandr Nikolaievich Iakovlev (Bí thư BCHTW ĐCS Liên Xô phụ trách công tác tư tưởng) là sự kiện về việc ông ta đã xây dựng được một hệ thống hỗ trợ tài chính của quốc gia cho hoạt động của các phương tiện thông tin đại chúng.

Iakovlev thực sự (de-faxto) trao cho tư nhân quyền sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng của quốc gia. Những điều kiện của hợp đồng rất đơn giản: tuyên truyền ủng hộ Gorbachov và che chắn những điều bất lợi có thể diễn ra từ phía “những người chống đối cải tổ”. Dưới sự điều hành của Iakovlev, bằng cách bôi nhọ những người tiền bối và những người đối lập của Gorbachov, tính chất công khai hoa mỹ của bè lũ Gorbachov người càng tăng lên.

Trước đây chúng ta được giáo dục về quan điểm rằng việc đấu tranh giành quyền tự do chính trị không hề có điểm chung với việc kinh doanh thu lợi nhuận. Còn Iakovlev lại khẳng định rằng điều đó không phải như vậy”.

Sự giúp đỡ của Mỹ đối với “những người bạn Xô Viết” đương nhiên là sự giúp đỡ của một con sói. Theo báo “Diena” ở Riga (Thủ đô của Latvi) ngày 30 tháng 7 năm 1992: “Từ năm 1985 đến cuối năm 1992, Mỹ đã đầu tư vào “tiến trình dân chủ hóa ở Liên Xô“ 90 tỷ USD”. Mặc dù tiền bạc đa được sử dụng rất thường xuyên, song vẫn còn có những cách thanh toán nợ khác: “Chúng ta không phải là trẻ con và chúng ta hiểu rằng một công việc như vậy không phải được làm miễn phí. Chúng ta vẫn phải trả giá cho dù không trực tiếp. Vào đầu năm 1991, trong một doàn đại biểu đông đảo của Liên Xô, Liên bang Nga và Hội đồng thành phố một, có hai người đã đem theo cả phu nhân - đó là Murasev và Lukin. Và chúng ta đã phải thanh toán cho mỗi bà gần 1000 USD”.

Trong phần kết luận, tôi muốn nêu ra hiện tượng đối lập: điệp viên của Nga ở Mỹ. Không thể khẳng định rằng “điệp viên có thế lực” là hiện tượng chỉ có trong thời kỳ “cải tổ” và chỉ riêng Nga mới có. “Những người của ta” cũng có mặt ở Mỹ. Sau Chiến tranh thế giới II, trên toàn thế giới, cả tại nước Mỹ, uy tín của Liên Xô và thái độ ngưỡng mộ đối với chủ nghĩa cộng sản lên rất cao. Người Mỹ đã bắt đầu công cuộc “cải tổ” ở Liên Xô ngay từ chính họ - từ việc lập lại “trật tự” trong “ngôi nhà của mình” khi mà vị thế của những người cộng sản trong toàn xã hội lên rất cao và hệ tư tưởng cộng sản đang thịnh vượng.
chuongxedap:

Địa chính trị “nội bộ” – 2

Lời kêu gọi chia cắt biên giới Liên Xô lần đầu tiên được vang lên tại Đại hội XXVII của ĐCS Liên Xô mà không gặp phải một phản ứng nào. Nó được thể hiện trong bài phát biểu của một bí thư thứ nhất vùng Xibiri là: “Thiên nhiên đã ban cho chúng ta một điều kỳ diệu vô cùng - Hồ Baikal. Vấn đề bảo vệ nó làm cho tất cả chúng ta, cho toàn xã hội phải quan tâm... Hồ này, về thực chất, đang ở trong tình trạng của một đứa trẻ có tới 7 bà nhũ mẫu, đang cần một chủ nhân có toàn quyền, có trách nhiệm trước nhân dân và quốc gia. (Vỗ tay)”. Lời nói gây nên phản ứng trong phòng họp đó được nói ra bởi một người biết rất rõ rằng những vùng lãnh thổ xùng qunh vùng Hồ Baikal chỉ có tộc người Buriat đang sinh sống. Đó là sự dốt nát và miệt thị đối với chính sách dân tộc nội bộ hay là sự khiêu khích? Sự phấn khích từ lời phát biểu của một bí thư thứ nhất khu ủy có ý nghĩa gì? Điều đó có nghĩa rằng trong đảng có cả những kẻ như vậy.

Vào thời kỳ cải tổ, trong các ấn phẩm, các vấn đề đó suýt nữa trở thành đề tài “số một”: “Không thể không nhất trí rằng sự chín muồi của các sự kiện đẫm máu ở Armeni và Azerbaidzan đã có khởi nguồn từ năm 1987 - ngay từ năm thứ hai của cải tổ. Vào đầu năm 1987, “Báo Văn học” đã đăng bài của “Hồi giáo” của Igor Beliaev, về thực chất, đã dẫn tới việc tôn giáo đó dứt khoát thù địch và nguy hiểm đối với quốc gia của chúng ta, còn những người hồi giáo là dân dã man và tráo trở. Thời đó trong báo chí đã có cả một chiến dịch làm rối loạn nhận thức của nhân dân nhằm phá hoại những quan niệm đã từng hình thành trong mọi người”

Trong những năm dưới chính quyền Xô Viết, tại một số địa phương đã có những sai lệnh trong việc xác định địa giới hành chính giữa các vùng dân tộc. “Việc không trùng hợp các địa giới hành chính với ranh giới sắc tộc đã trở thành nhân tố đáng kể nhất. Cho tới hiện nay, còn 7 triệu km2 có đến 30 triệu người đang sinh sống đang trở thành điều gây tranh cãi trước hết về dấu hiệu này”.

Đúng dịp trưng cầu dân ý vào tháng 3 năm 1991 về sự tồn tại của Liên Xô, trên tờ “Tin tức Matxcơva” đã cho đăng các số liệu về những sai lệch ranh giới đó trong những năm dưới chính quyền Xô Viết1. Trong đó dẫn ra rằng trong vũ đài địa chính trị Liên Xô có tới 76 đầu mối và điểm có tiềm năng xung đột cao. Và nhiều nguy cơ xung đột trong đó chưa hề được bộc lộ vào những năm 1985 - 1991 và mười năm sau này. Phần lớn số đó còn ở dạng tiềm ẩn cho những cuộc ly khai mới của thế hệ tương lai lãnh đạo đất nước.

Trong những năm cải tổ, những vấn đề này, ban đầu dường như chưa phải có tầm quan trọng hàng đầu, đã trở thành vấn đề quyết định trong việc làm Liên Xô sụp đổ. Đây chính là giải pháp phi truyền thống - “Xung đột cường độ thấp” - mà các nhà nghiên cứu CIA đã tìm ra. Những người khởi nghĩa chống chính quyền trung ương thường trông chờ vào hành động chống đối trực tiếp như chiếm các thành phố lớn, tuần hành trên các đường phố của thủ đô... Trong những trường hợp như vậy, chính quyền thường phản ứng rất mau lẹ và đưa quân đội đến đàn áp (Điều này từng được thể hiện rất rõ trong lịch sử Nga với cái gọi là “Những cuộc chiến tranh của nông dân”. Nhưng đây lại là những hành động chống đối không trực tiếp, khi nhóm này chống lại một nhóm khác. Quân đội đã được sử dụng với tư cách là “phe thứ ba” nhằm mục đích hòa giải các bên chứ không thể đàn áp một bên nào. (Chỉ ở Chesnia, về thực chất, là sử dụng những biện pháp truyền thống). Trong trường này quân đội đã phải hứng chịu đòn tiến công của cả hai phe vũ trang bất hợp pháp cũng như của những kẻ phản bội ở Trung ương.

Ngoài ra, nhân tố không trùng hợp địa giới hành chính với ranh giới sắc tộc còn bị lợi dụng tại những vùng chủ yếu có người Thổ ở Bungari và người Hunggari ở Rumani.

Có thể xem thấy kịch bản đó qua những sự kiện ở Nam Tư. Như mọi người đều biết, ở đó có N. X. Khruxov của chúng ta và Iosif Bros Tito (không phải ngẫu nhiên mà Nikita Xergeievich đã ngay lập tức thiết lập quan hệ với họ, sau khi ông ta đã củng cố được quyền lực ở Kremli). Sau chiến tranh thế giới II, ông ta đã cho phép hình thành ở Kosovo tới 70000 người Albani. Sau 50 năm, dân tộc này đã có số dân áp đảo - điều đó được tạo thành bởi tỷ lệ sinh và những cuộc di dân tự do...
______________________________
1. Xem phần phụ lục cuối chương về “Những cuộc tranh chấp và xung đột lãnh thổ - sắc tộc chủ yếu ở Liên Xô”.
chuongxedap:

Hệ thống xã hội chủ nghĩa và sự sụp đổ của nó

Liên Xô và phần lớn các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu - Cộng hòa nhân dân Bulgari,Cộng hòa nhân dân Hunggari, Cộng hòa dân chủ Đức, Cộng hòa nhân dân Ba Lan, Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Rumani, Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Tiệp Khắc - đã từng là một hệ thống thống nhất. (Albani và Nam Tư cũng là những nước xã hội chủ nghĩa, song chúng tôi không đưa vào danh sách này vì chúng đã nằm ngoài phạm vi điều hành của Kremli). Một hệ thống có những khác biệt với các hệ thống khác đã từng tồn tại. Nếu mô tả nó theo những khái niệm thông thường, thì có thể nhận thấy rằng các nước xã hội chủ nghĩa nêu trên ở Đông Âu là một phần trong hình ảnh chính trị tổng thể của “hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới”, trong quan hệ kinh tế - Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV), trong quan hệ quân sự - Tổ chức Hiệp ước Varsava. Mức độ liên kết của chúng cao tới mức số phận của chúng có thể là của chung tất cả. Mọi ý định của bất kỳ một thành viên nào nhằm từ bỏ cuộc chơi chung đều tất yếu dẫn tới đổ vỡ. Chúng chỉ có thể gắn kết ngày càng chặt chẽ với Kremli và với nhau.

Nếu xem xét các nước xã hội trong hoàn cảnh hệ thống xã hội chủ nghĩa tan rã và chế độ xã hội biến đổi, thì có thể phân tích những nước nối trên như những thành tố mang những đặc điểm hệ thống khác nhau. Chúng ta sẽ phân tích chúng bắt đầu từ mắt xích yếu nhất trong “hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới”. Cùng với những đặc điểm khác, một trong những bằng chứng gián tiếp của tính đúng đắn trong quan điểm này là việc sử dụng các biện pháp phá hoại nhằm vào trật tự cũ - bằng cả “bàn tay nhung” lẫn “bàn tay sắt”.

Tôi coi Ba Lan như một mắt xích yếu nhất. Đó là vì: Ba Lan, trong lịch sử, đứng hàng đầu tiên trong số những nước từng xâm lược chống Nga. Ba Lan là một nước phương Tây điển hình có đám dân chúng bị tha hóa. Chịu ảnh hưởng rất lớn của Kito giáo, nhất là ở các vùng nông thôn. Có tỷ lệ dân Do Thái cao, dễ dàng thiết lập những mối quan hệ với bên ngoài. Đây là những nguyên nhân chính để các trung tâm trí tuệ của phương Tây lựa chọn Ba Lan để bí mật chiếm đoạt và sử dụng nó như một bàn đạp nhằm phát triển cuộc tiến công.

Tôi xếp các nước như Bulgari, Hunggari, Công hòa dân chủ Đức, Tiệp Khắc và Liên Xô vào vị trí thứ hai cho dù chúng không hoàn toàn như nhau. Mỗi nước trong số này đều có những “ưu” và “khuyết” trong con mắt của các nhà phân tích phương Tây. Thành tố cuối cùng (và cũng là mạnh nhất như các sự kiện sau này khẳng định) là Rumani - một đất nước có ban lãnh đạo không thể bị mua chuộc do Ceausescu1 đứng đầu. Nhân tố này, thoạt nhìn, có tính chủ quan, tiêu cực, song lại mang tính tích cực riêng của nó. Đất nước được coi như của cha truyền con nối, và vì thế, khác với những kẻ đương thời ở Nga, nó không sẵn sàng “đầu hàng”.

Bắt đầu từ thành tố tầm thường, yếu kém nhất: “Cơ chế phá hoại kinh tế rất đơn giản. Trong giai đoạn đầu, các đối tác phương Tây cung cấp cho Ba Lan những xí nghiệp với hình thức thanh toán là họ sẽ tiêu thụ toàn bộ các sản phẩm do những xí nghiệp này sản xuất ra. Sang giai đoạn hai, các đối tác từ chối tiêu thụ các sản phẩm đó! Các xí nghiệp bị phá sản, tổng nợ ngoại tệ của Ba Lan tăng lên cao bởi, theo thỏa thuận ở giai đoạn một, việc cung cấp nguyên liệu, thiết bị và các phụ tùng thay thế từ phương Tây vẫn được tiếp tục. Đó thực sự là một sự cướp bóc, song vẫn là còn nhẹ. Các nhà doanh nghiệp phương Tây bắt đầu đẩy cao tỷ lệ phần trăm các khoản tín dụng đã cung cấp và lẽ đương nhiên là khoản nợ của Ba Lan tăng thêm. Thành công của cuộc chiến tranh kinh tế còn được bảo đảm bởi các thế lực trong nước thông qua việc chúng cắt giảm hàng xuất khẩu từ Ba Lan sang phương Tây.

Song, điều ngoạn mục nhất trong kịch bản này là các lực lượng “tiến bộ”, thậm chí chúng có mặt trong chính quyền, thực hiện công việc của mình, phương Tây không chấp nhận cho họ nợ những gì đã giúp. Từ đây có thể nảy sinh tranh chấp. Ba Lan không thể sản xuất ra sản phẩm có khả năng cạnh tranh ở phương Tây thì đó đó là lỗi của họ. Kẻ tội đồ chủ yếu chịu trách nhiệm về sự đỗ vỡ nền kinh tế, đương nhiên, là chủ nghĩa xã hội - một chế độ xã hội không thể tạo ra một nền kinh tế có hiệu quả, một nền sản xuất có hiệu quả. Có thể coi phản ứng đó là đúng, nếu không có sự hiện diện của một vấn đề mà những nhà chính trị học phương Tây thì biết rất rõ, còn trong nước chúng ta lại bị bưng bít. Ngay từ năm 1972, các cơ quan tình báo phương Tây đã từng triển khai một kế hoạch về cuộc chiến tranh tài chính chống Ba Lan mang mật danh “Hilexs-5”. Tác giả của nó là những nhà chính trị nổi tiếng, như: Zbinaiev Brzezinxki và Richard Pips... Vào thời điểm Reagan bước vào Nhà Trắng, họ đã triển khai ít nhất 3 kịch bản gây mất ổn định cho Ba Lan. cả Zbinaiev Brzezinxki và cả Richard Pips đều không che dấu điều này. Còn giả thuyết về việc vào năm 1981 Ba Lan không thể “tự mình” khắc phục những khó khăn của họ chỉ là “con mồi để nhử những kẻ ngốc”. Nó cũng có một vai trò nhất định và cuộc chiến tranh tài chính - kinh tế đã giáng mạnh vào nền kinh tế quốc dân: “Nền kinh tế Ba Lan không đủ ổn định, đất nước ở trong tình trạng nợ lớn. hệ thống phân phối hàng hóa được bắt đầu từ phiếu mua thịt và nhanh chóng thao túng mọi loại hàng hóa.

Chính phủ không thể bảo đảm cho dân chúng mua hàng hóa ở mức độ đủ dùng. Hậu quả của tình trạng đó đã dẫn tới các cuộc đình công và sự khủng hoảng lại càng trở nên sâu sắc hơn. Theo quan điểm của các nhà tài chính, đất nước này đã rơi vào tình trạng bất lực hoàn toàn. Vào năm 1981, Ba Lan không thể có đủ 12 tỷ USD để trang trải các khoản nợ của mình. Chiến lược phá hoại nền kinh tế Ba Lan đã được tiến hành dưới sự bảo trợ của “RAND Coporation”.

Đúng vào thời điểm đó trong đất nước Ba Lan đã thường xuyên xảy ra những hành động phá hoại ngầm chưa từng có: “Như Henry Hid - một thành viên của ủy ban tinh báo trong giai đoạn từ 1985 đến 1990 - đánh giá, “Tại Ba Lan, chúng ta đã làm tất cả những gì đã từng làm tại những nước mà chúng ta muốn làm mất ổn định đối với chính phủ cộng sản và đẩy mạnh sự phản đối chống lại chính phủ đó. Chúng ta đã tiến hành cung cấp và hỗ trợ kỹ thuật dưới dạng sách báo, chương trình phát thanh, tuyên truyền bí mật, tiền bạc, các hướng dẫn thành lập các tổ chức và các hiệp hội khác”.

Vậy là Ba Lan tiêu đời. Những biện pháp mà ban lãnh đạo Xô Viết thực hiện đã bị phương Tây làm cho phá sản. Có thể nói, nước Cộng hòa nhân dân Ba Lan là còn tàu “Titanic” đã cuốn cả Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác chìm theo: “Những tác động từ Ba Lan đã vượt ra ngoài ranh giới của nó, khích lệ sự chống đối tương tự tại các nước xã hội chủ nghĩa khác ở châu Âu”. Điều đó có nghĩa là “Victory” (chiến thắng) ở Ba Lan giờ đây đang làm cho chủ nghĩa xã hội tại các nước khác lâm vào thoái trào. Đây là những phương pháp đặc biệt và đã được các chuyên gia theo quan điểm hệ thống áp dụng.

Âm mưu đó được các nhà Xô Viết học thế hệ thứ hai ở Mỹ làm sáng tỏ trong các công trình khoa học công khai của mình, như của R. Ludwikowxki và S. Brucan. “Từ cuộc khủng hoảng ở Ba Lan những năm 1980, R. Ludwikowxki đã cố gắng mô hình hóa những đặc điểm có thể về biểu hiện khủng hoảng tương tự tại các nước khác. Với cách đặt vấn đề, khủng hoảng sẽ chỉ giới hạn tại Ba Lan hay sẽ lan sang các nước xã hội chủ nghĩa khác, tác giả công trình nghiên cứu đã đi đến nhận xét rằng cuộc khủng hoảng đó sẽ không bỏ qua các nước, kể cả Liên Xô“ (Ludwikowxki R. The Crisis of Communism. It's meaning, origins and phases. Cambrige, 1986).

Còn S. Brucan, khi đề cập tới vấn đề toàn cầu về sức sống của chủ nghĩa xã hội thế giới dưới tác động của những thay đổi đang diễn ra trong thế giới, đã đưa ra một dự báo bi quan về đặc điểm quốc gia đang thống trị trong hệ thống xã hội chủ nghĩa. (Brucan S. Wold Socialism at the Crossroads. An Insider's view. New York, 1987). Tác giả này, như chúng ta thấy, rõ ràng đưa ra những kết luận vô căn cứ về yếu tố có tính chất quyết định tác động tới khủng hoảng là Liên Xô và các nước Đông Âu đều có chung đặc điểm quốc gia. Ở Mỹ cũng sẽ phải có những xí nghiệp mang đặc điểm quốc gia như chúng vẫn có ở Trung Quốc, tuy nhiên ở đó không có khủng hoảng vì không có những biến động. Điều đó có thể giải thích rằng: khi những năm tháng đầu tiên mới diễn ra cải tỗ, ai sẽ là người có thể gọi sự vật bằng đúng tên của nó.
________________________________
1. Sinh năm 1918, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Rumani từ năm 1967; Chủ tịch Hội đồng dân tộc Mặt trận dân chủ và thống nhất xã hội chủ nghĩa từ năm 1968; Tổng Bí thư ĐCS Rumani từ năm 1969; Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Rumani từ năm 1974...(ND).
Khi nói về nhóm nước “Bulgari - Hunggari - Cộng hòa dân chủ Đức - Tiệp Khắc - Liên Xô“ cần phải bổ sung rằng cho dù ở từng nước này các sự kiện đã diễn ra theo kịch bản riêng, song đều mang dấu ấn của “sự tương trợ”. Ví dụ như Hunggari, một nước bị xâm lược sớm nhất và có ban lãnh đạo nhu nhược nhất lại đi “giúp đỡ” Tiệp Khắc, rồi nước này, đến lượt mình, sau khi mở cửa biên giới cho những người Đông Đức sang Tây Đức, đã “giúp đỡ” Cộng hòa dân chủ Đức tổ chức tỵ nạn. Ba Lan và Liên Xô đã “giúp đỡ” nhau khi cả hai bên cùng buộc tội Xtalin có âm mưu bí mật với Hítle, đã xử tử những sĩ quan Ba Lan ở Katyni. Và Ba Lan - một nước chuyển sang chủ nghĩa tư bản sớm nhất, - đã trình diễn “những thành tựu” của mình thông qua các phương tiện thông tin đại chúng ở Matxcơva. Trong phạm vị nghiên cứu của mình, chúng tôi có thể chỉ ra rằng, một trong số những “kẻ chiến thắng” chủ yếu ở Ba Lan đã từng “giúp đỡ” Liên Xô: “... Vị Bí thư Khu ủy Geremek của Ba Lan, nhờ có kinh nghiệm trong sự nghiệp “dân chủ hóa” đất nước mình, vào năm 1991 đã trở thành cố vấn chính thức cho B. N. Eltxin”. Không hiểu sự “tương trợ lẫn nhau” đặc biệt này thì không thể hình dung một cách đầy đủ về khuynh hương toàn cầu của sự kiện đã diễn ra. Quan điểm thông thường của một người nghiên cứu (về sử học hay chính trị học) đều rất hạn chế, do người đó phản ánh một cách tùy tiện những sự kiện ở các nước Đông Âu theo trình tự thời gian. Còn nhà nghiên cứu theo quan điểm hệ thống hay điều khiển học thì chỉ cần tách ra hiện tượng quyết định tới các sự kiện khác trong nước này hay nước khác. Hiện tượng đó, tuy có mức độ khác nhau, song đều kéo theo những sự kiện tương tự tại các nước khác, nhất là ở các nước láng giềng. Tuy nhiên, đoi khi cách nghiên cứu đặc biệt này cũng trở nên vô nghĩa nếu không tính tới yếu tố ảnh hưởng tương tác.

Một bộ phận lãnh đạo Liên Xô thân phương Tây đã ủng hộ trào lưu ghét Nga (Russophobia) và cố gắng đáp ứng mọi yêu sách quá đáng của những kẻ theo trào lưu này. Ban đầu là chúng cung cấp số liệu về vụ xử tử những sĩ quan Ba Lan tại Katyni, sau đến việc chính những người Nga khẳng định điều đó.

Khác với những “vụ đột kích của những kẻ thân phương Tây” bất thành - ở Cộng hòa dân chủ Đức (năm 1953); ở Hunggari (năm 1956); ở Tiệp Khắc (năm 1968) và ở Ba Lan (năm 1970) - những kịch bản sự kiện “giúp đỡ”, trong đó có cả về quân sự, cho một nước nào đó từ phía các nước còn lại, đặc biệt là từ phía Liên Xô (với tư cách là một quốc gia hùng mạnh nhất) đều dễ dàng kích động lên những làn sóng Russophobia mới và thái độ căm ghét “hệ thống xã hội chủ nghĩa”. Kịch bản như thế đã góp nên một phần không nhỏ cho những thành công của chúng.

Chúng ta cũng đồng thời nhận thấy Đông Đức có một sắc thái đặc biệt - nó không chỉ bị cuốn theo “giải phóng khỏi chủ nghĩa cộng sản”, đi theo con đường của chủ nghĩa tư bản, mà còn muốn liên kết với Cộng hòa liên bang Đức. Đây là hiện tượng ngược chiều với những gì đã diễn ra ở Tiệp Khắc và Nam Tư - những nơi đang đòi ly khai. Nói cho chính xác, cả hai nhiệm vụ này đều là những điểm cốt lõi của cùng một mục tiêu. Mọi sự đã diễn ra một cách nhanh chóng và bất ngờ.

Bước tiến của CIA về lục địa châu Âu đã diễn ra rất phức tạp. Và chính “bên thứ ba” đã làm nên những sự phức tạp đó.... Rốt cuộc, tác động của “nguyên tắc domino” đã xảy ra, sự tan rã của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đã trở thành quá trình không thể đảo ngược

Thành tố cuối cùng, “Rumani tự hào đã hoàn thành sứ mệnh bảo vệ ngoan cường sự chính thống của chủ nghĩa Mác, trong khi các nước láng giềng của nó đã phó mặc mình bị cuốn theo cơn bão cải cách của Gorbachov”. Tuy nhiên, nguyên nhân của những sự kiện bi thảm không phải là hệ tư tưởng, mà vì kinh tế. Mục tiêu của những “cải tổ” ấy, theo như cách chúng ta hiểu, không chỉ đơn giản là tàn phá để rồi sau đó nhìn thấy được sự sáng tạo của đôi bàn tay từ “cảnh tượng điêu tàn”, mà là trò làm tiền ngoạn mục khi mà giá cả leo thang, khi mà giá cả của ngày hôm qua được coi là quá rẻ. Nhà nước Rumani xã hội chủ nghĩa đã tiến hành đường lối tiến công, “... Đất nước trở thành một quốc gia duy nhất trên thế giới thanh toán được nợ và, đương nhiên theo đó, có được khả năng tự do điều hành mọi mặt - bắt đầu bằng cách xuất khẩu tài nguyên thu ngoại tệ. Ngày 12 tháng 4 năm 1989, tại Hội nghị toàn thể BCHTW ĐCS Rumani, Nikolae Ceausescu đã trịnh trọng tuyên bố với toàn thế giới về việc Rumani đã thanh toán được hoàn toàn nợ nước ngoài.

Nhưng đây chính là điều mà thế giới phương Tây không hề thích thú. Rumani là một tấm gương nguy hiểm đối với các nước khác”.

Vị Chủ tịch Phân ban về Đông Nam Á và khu vực Thái Bình Dương thuộc ủy ban Địa chính trị của viện Duma quốc gia, thành viên của phái LDPR là M. L Monaxtyrxki trong ban biên tập (Press-release) “Nước Nga và Địa chính trị” đã dẫn ra lời trích từ một cuốn sách “Bàn tay vô hình, hau quan điểm coi lịch sử như một âm mưu” của R. Epperson: “Các ông chủ ngân hàng phải có một chiến lược để cho họ có thể tin tưởng rằng chính phủ mà họ đang cho vay nợ sẽ không xóa khoản nợ mà các ngân hàng đã cấp cho nó.

Các ngân hàng thế giới đều lần lượt có kế hoạch của mình. Kế hoạch đó được gọi là “chính sách cân bằng lực”. Nó có nghĩa là các chủ ngân hàng đã cùng một lúc cho hai chính phủ vay nợ nhằm tạo cho mình cơ hội xúc xiểm quốc gia này với quốc gia kia như một phương tiện cưỡng bức một bên trong số họ trả nợ cho các chủ ngân hàng. Phương tiện bảo đảm thành công nhất trong các điều kiện thanh toán nợ là đe dọa chiến tranh - chủ ngân hàng luôn có thể đe dọa chính phủ không thực hiện cam kết bằng chiến tranh như là một phương tiện cưỡng bức thanh toán nợ.

Điểm then chốt ở đây là tính chất quân bình của các quốc gia: không một nước nào đủ mạnh, đe dọa quân sự từ phía nước láng giềng yếu nhất sẽ không đủ để cưỡng bức thanh toán. Ngoài thành công trên mặt trận chiến tranh tài chính - kinh tế, N. Ceausescu còn sẵn sàng cho một tiến trình chính trị mạnh mẽ ngay trong lòng của phong trào cộng sản quốc tế: “Vào tháng 12 năm 1989, BCHTW ĐCS Rumani đã nêu lên sáng kiến tiến hành một hội nghị quốc tế các đảng cộng sản ở Bucuresti (Thủ đô của Rumani) hoặc ở Matxcơva (hội nghị như thế đã từng được tổ chức lần cuối cùng vào năm 1969), trong đó các nhà cộng sản Rumani có dự định công khai bày tỏ ý kiến của mình về “Tư duy mới”, “Cải tổ” và “Công khai”.

Theo các quyết định của Đại hội XIV Đảng Cộng sản Rumani (tháng 11 năm 1989), từ ngày 10 đến hết ngày 14 tháng 12 năm 1989, BCHTW ĐCS Rumani đã gửi những văn bản cần thiết cho 12 BCHTW của các ĐCS, trong đó có BCHTW ĐCS Liên Xô và đảng cộng sản các nước Đông Âu. Sáng kiến này đã được các Đảng cộng sản Cuba, Việt Nam, Albani, Trung Quốc và một loạt những nước đang phát triển ủng hộ. Sau ngày 20 tháng 12, các văn bản tương tự của Đảng cộng sản Trung Quốc, Mỹ, của các nước Tây Âu, Nam Á, và châu Mỹ đã được gửi đến. Tuy nhiên, BCHTW ĐCS Liên Xô cũng như BCHTW ĐCS các nước Đông Âu đã không trả lời kiến nghị của ĐCS Rumani. Ngày 20 đến ngày 23 tháng 12 năm 1989, một cuộc đảo chính đẫm máu đã diễn ra tại Rumani, được Matxcơva và Mỹ tán đồng”. Dường như là kế hoạch cấp chính phủ của ĐCS Rumani đã có thể giáng một đòn vào lực lượng phá hoại ở Liên Xô và các nước khác. Chính vì vậy mà các thế lực thù địch đã quyết định đẩy nhanh tiến trình...

Vậy là phải công nhận rằng, ngoài “cuộc cách mạng chung Xô - Mỹ”, còn diễn ra: cuộc cách mạng chung Bulgari - Mỹ; cuộc cách mạng chung Hunggari - Mỹ; cuộc cách mạng chung Đông Đức - Mỹ; cuộc cách mạng chung Ba Lan - Mỹ; cuộc cách mạng chung Rumani - Mỹ; cuộc cách mạng chung Tiệp Khắc - Mỹ. Mỗi cuộc cách mạng chung đó tuy có những sắc thái riêng của mình, song đều là nhằm làm thay đổi chế độ hiện hành, cướp bóc các dân tộc đó, loại bỏ những nước đó (trừ Albani và Nam Tư) ra ra khỏi phạm vi điều hành của Kremli.

Tác giả của Đề án “Xóa bỏ các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu theo từng giai đoạn” là German Kane - người của RAND Coporation.

Cần phải nhận thấy tính chất tổng hợp rất rõ ràng của những phương pháp phá hoại hệ thống chủ nghĩa xã hội thế giới và Liên Xô. Trước khi “kết liễu” khối SEV, nhân dân Liên Xô đã bị đầu độc bởi tư tưởng cho rằng họ đang phải nuôi dưỡng người Bulgari, Hunggari, Đông Đức, Ba Lan, Slovak, Rumani, Sec (trên thực tế là cả người Mỹ, Tấy đức và Nhật Bản). Đã đến lúc phải chia tay với khối SEV. Và họ đã làm được như vậy. Khi sự Dối trá Vĩ đại lại được diễn ra theo kịch bản đó ở cấp độ liên bang - chúng ta đang phải nuôi dưỡng những người Azerdbaidzan, Armeni, Belorus, Gruzi, Kazak, Kirgizi, Latysi, Litva, Moldavi, Nga, Tadzik, Turkmen, Uzbek Ucrain, Estoni. Và họ lại làm được như vậy. Giờ đây, nếu sự tưởng tượng không thể phong phú hơn, thì kịch bản đó sẽ có thể diễn ra ở cấp độ trong nước Nga. Liệu họ lại có thể làm được như vậy?
chuongxedap:

Nhiệm vụ của Ianaiev

Ngài Phó Tổng thống Liên Xô G. I. Ianaiev cũng gánh vác nhiệm vụ phá hoại Liên Xô của mình. Thậm chí, có những thời điểm, nhiệm vụ này của ông ta còn mang tính then chốt - không có một ai khác có thể làm nổi. Vào năm 1991, M. X. Gorbachov đã từng có 4 phó trực tiếp cho mình. Về bên đảng có Phó tổng bí thư BCHTW ĐCS Liên Xô là V. A. Ivasko; về bên nhà nước là Phó Tổng thống Liên Xô G. I. Ianaiev và Thủ tướng Liên Xô V. X. Pablov; về phía Tổng Tư lệnh tối cao các lực lượng vũ trang Liên Xô G. I. Ianaiev với cương vị là Phó chủ tịch Hội đồng Quốc phòng trực thuộc Tổng thống Liên Xô. Và G. I. Ianaiev đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử vĩ đại của mình. Ông ta đã hoàn thành đến cùng với 100% công vụ. Tôi không hề có một chút nghi ngờ nào về việc G. I. Ianaiev là một con người chân thành và ông ta từng mong muốn đem lại lợi ích cho đất nước và cho nhân dân. G. I. Ianaiev không phải là kẻ phản bội, ông ta chẳng qua chỉ là một trong số những nhân vật không gặp thời - những người tin tưởng một cách chân thành rằng “Họ đã muốn mọi sự trở nên tốt hơn, song sự thể lại không như vậy”. Đó chính là thảm họa chung của tất cả chúng ta.

Vậy, G. I. Ianaiev đã được dùng để làm gì? Điểu hiển nhiên rõ ràng là nếu phân tích “sứ mệnh lịch sử” của ông ta, tức là đã trả lời được câu hỏi tại sao con người này lại được bố trí vào cương vị của nhân vật số hai trong quốc gia vào đúng thởi điểm đầy trọng trách ấy, thì chúng ta có thể nói rằng G. I. Ianaiev chính là loại người được lý tưởng đã lựa chọn. Cho dù ông ta đã từng công tác tại Matxcơva với vai trò đứng đầu, ở những cương vị mà chúng ta gọi một cách giả định là “tư tế”, người ta đã không cho phép ông ta đưa ra được một chính sách hiện thực nào. Đó là một con người chưa đủ tầm, chưa đủ tài năng nhạy cảm chính trị và tầm nhìn xa, một con người chưa bao giờ khai phá cho mình con đường riêngÔng ta chỉ là một con người không bị văng ra khỏi sự vận hành tự động trục tung hay trục hoành mà thôi. Cả hai tấm bằng đại học và tấm bằng tiến sĩ vẫn chưa đủ biến ông ta thành người trí thức

Liệu G. I. Ianaiev có phải là giải pháp duy nhất. Chắc là vậy. Các ứng cử viên như ông ta có rất nhiều ở Liên Xô. Nhưng họ có thể từ chối - tình hình trong nước “không thể tồi tệ hơn được nữa” bởi tình hình đó đã là “cực kỳ tồi tệ”. Các ứng cử viên khác với cách tư duy như thế đã có thể xử sự hoàn toàn khác những kẻ được gọi là “những nhà ảo thuật của chiến tranh lạnh” và miệt thị những ý đồ giá trị. Vậy thì G. I. Ianaiev là lý tưởng - lời tiến cử ông ta vào cương vị của nhân vật số hai trong quốc gia đã được M. X. Gorbachov đưa ra 2 giờ trước khi biểu quyết... và sự nhất trí cũng ngay lập tức được thể hiện: “Nếu Đảng chỉ thị thì...”. Có thể nói, vào chính thời điểm này, các nhà Kremli học đã có thể xoa tay - một nửa công việc đã được hoàn thành: không thể nghĩ ra được một ứng cử viên nào tốt hơn. Trả lời chất vấn của một đại biểu về sức khỏe G. I. Ianaiev đã nói một cách láu lỉnh rằng người trả lời câu hỏi đó tốt nhất chính là vợ của ông ta. Một người khác “... đã hỏi không hề châm chọc:

- Ngài có một học vấn rất rộng: nông nghiệp, luật học, sử học. Làm ơn cho biết đề tài luận văn tiến sĩ của mình, thời gian và nơi bảo vệ luận văn.

Và người cựu kỹ sư kỹ thuật nông nghiệp đã không hề máy mắt, lường gạt cả nước và cả thế giới ngay từ diễn đàn của Xô Viết Tối cao Liên Xô:

Tôi rất vui lòng kể tên luận văn của mình. Đề tài của tôi đề cập tới chủ nghĩa Trotkis và chủ nghĩa vô chính phủ. Tôi đã bảo vệ luận văn ở Matxcơva, tại Viện Phong trào công nhân quốc tế... Năm bảo vệ, theo tôi là khoảng 1976, 1977... Ta cứ coi là 1976...

Sự mơ hồ này đã kích thích nhà bình luận của “Báo văn học” là Anatoli Rubinov. Anh ta bắt đầu tiến hành tra cứa và lập tức phát hiện ra rằng không thể “coi là 1976”, vì luận án đã được bảo vệ sau đó những 3 năm. Hơn nữa, nó hoàn toàn không đề cập tới chủ nghĩa Trotkis và chủ nghĩa vô chính phủ! Do mong muốn tìm hiểu bản luận văn, người phóng viên “Báo văn học” đã tự nhiên quan tâm tới việc vị Phó Tổng thống tương lai đã trở thành tiến sĩ khi nào và ở đâu. Song tại thư viện của Viện Phong trào công nhân quốc tế, bản luận văn đó đã bị thất lạc...

Anatoli Rubinov, tuy nhiên, đã tìm thấy nó ở một nơi khác - tại phân ban của Thư viện V. I. Lênin: ... G. I. Ianaiev... 1979... đã bảo vệ luận án tiến sĩ về “Những vấn đề phát triển khuynh hướng tiến bộ trong phong trào thanh niên ở các nước chủ nghĩa tư bản phát triển (Từ cuối những năm 1960 đến nửa đầu những năm 1970)”.

Bên cạnh đó, trong suốt toàn bộ thời gian trên cương vị này G. I. Ianaiev đã không hề làm một điều gì: “Là nhân vật số hai của quốc gia,G. I. Ianaiev, như bây giờ mọi người đã rõ, thực sự không chịu trách nhiệm về việc gì”. Thực sự không thể hình dung ra một tình trạng khủng hoảng hơn trong lĩnh vực điều hành đất nước.G. I. Ianaiev dường như đã nằm ngoài phạm vi điều hành. Con người này đã im lặng, hoặc vì đã hài lòng với mọi sự và xem cương vị của mình như một sine-cura (vô lo), cho tới khi ông ta làm trò ở ủy ban quốc gia về tình trạng khẩn cấp.

Vậy là, một kẻ dung tục (cách trả lời câu hỏi về sức khỏe), kém thông minh (hành động trong thời gian ở ủy ban quốc gia về tình trạng khẩn cấp), dối trá tầm thường (trả lời về luận văn), vô công rồi nghề (khối lượng công việc thực hiện trong thời gian ở cương vị phó tổng thống), và theo cách luận giải mềm mỏng nhất là một kẻ có tâm lý thiếu tin tưởng chính bản thân mình (được biểu hiện ở đôi tay run rẩy tai cuộc họp báo duy nhất của ủy ban quốc gia về tình trạng khẩn cấp vào ngày 19/8/1991) - lại là một nhà quản lý lý tưởng. Có thể chúc mừng trước hết những kẻ âm mưu ở bên ngoài - Họ đã chọn được một phiên bản đẹp trong số những cán bộ Trung ương cao cấp nhất Xô Viết.
chuongxedap:

Những bước phản tiến

“Cần dấn lên, cần dấn lên! Tôi không rõ thế nào, song tôi có kế hoạch...”1
M. X. Gorbachov.

“Và chỉ có một số ít, rất ít người sẽ đoán được và hiểu được điều gì đang diễn ra. Nhưng những người đó sẽ bị chúng ta đẩy vào tình thế bất lực, chúng ta biến họ thành kẻ bị mọi người chê cười, chúng ta tìm cách vu oan cho họ và tuyên bố đó là thứ rác rưởi của xã hội”.
Allen Dalles.


Cần phải nói rằng, toàn bộ đường lối hiện thực được xây dựng trước hết trên chống trả kẻ thù một cách khôn khéo. Những âm mưu bên trong cũng như bên ngoài quốc gia thường đeo đẳng suốt toàn bộ lịch sử chính trị, song việc khôn khéo phát hiện và chống trả lại những âm mưu đó là một trách nhiệm vô cùng to lớn của người lãnh đạo tinh tế. Thủ tướng đầu tiên của Hoàng gia Pháp và Navarra2 là Richelieu3, toàn bộ hoạt động của con người này luôn là những âm mưu của giới thượng lưu trong triều đình. Ông ta đã đưa ra một vài nguyên tắc mà tính cấp thiết của chúng cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị: “Không có gì cần cho việc điều hành một quốc gia bằng sự sáng suốt nhìn xa trông rộng, bởi nhờ nó mà có thể luờng trước nhiều hậu quả. Cũng như một người thầy thuốc có khả năng chẩn đoán trước bệnh tật sẽ luôn được kính trọng hơn người chỉ cố gắng chữa bệnh, các bộ trưởng của quốc gia cần thường xuyên hình dung ra và nhắc nhở cho quốc gia của mình rằng việc bàn định những vấn đề của tương lai luôn quan trọng hơn rất nhiều so với những vấn đề của hiện tại. Giống như trị bệnh, đối với các kẻ thù của quốc gia, cần đối mặt tống cổ chúng ngay khi xâm nhập. Những người có tầm nhìn xa trông rộng, không bao giờ làm điều gì khinh suất bởi họ đã suy tính từ trước, khó phạm sai lầm do đã suy nghĩ chu đáo từ trước.

Giống như con sư tử lúc ngủ, nó không bao giờ nhắm mắt để có thể sớm nhận ra những bất lợi. Những bất hạnh thường xuyên xảy ra với quốc gia, nếu nó không được thận trọng xem xét từ sự khởi đầu của mình, không suy tính sớm, sẽ trở nên nguy hại hơn rất nhiều, và chính những bất hạnh đó sẽ trở thành những vấn đề quan trọng nhất”.

Chiến thắng, như mọi người đã biết, thường xuyên được rèn luyện trong đấu tranh, và có thể nói một cách chính xác rằng các đồng chí cộng sản và các quý ngài yêu nước trong cuộc chiến giành đất nước đã bị thất bại từ rất lâu trước khi có cải tổ. Tại phương Tây, nơi chuyên nghiên cứu về hệ thống những người những người yêu nước của thập kỷ 1960 - 1980, cho thấy nó là một cảnh tượng khá đáng thương: chủ nghĩa cá nhân; những hành động riêng lẻ của kẻ cô độc trong sự im lặng hoàn toàn của những thành viên khác; rặt những lời hoa mỹ; sự cách biệt và thiếu vằng những mối quan hệ giữa các thành phố với nông thôn; sự thiếu chín chắn trong các chiến dịch; tư tưởng hẹp hòi của các thủ lĩnh; không có người lãnh đạo tài giỏi, và nó “xa cách với nhân dân đến mức đáng sợ”.

Đó cũng là bức tranh của những năm tháng cải tổ. Lịch sử của chúng ta, than ôi, là một sự chuyển giao đậm đặc những quan điểm bị tác động từ bên ngoài, thực sự không hề có một sự kháng cự nào - suốt 10 năm qua chúng ta đã tồn tại tựa như là người ta cho phép chúng ta tồn tại. Mọi ý đồ kháng cự đều bị đặt ngoài những quá trình hiện thực và trong nhiều trường hợp kẻ thù đã xúi giục họ tạo ra những vụ khiêu khích ảo, để sau đó chúng lần lượt giành lấy chiến thắng, còn chúng ta phải hứng chịu hết thất bại này tới thất bại khác. Tất nhiên, cũng có thể nhận ra những ý định chân thành của những người có ảnh hưởng tới quá trình, song họ lại tản mạn và bất lực: “...Có rất nhiều người chân thành khát vọng, song họ lại hành động bằng những phương thức không phù hợp. Tính chất không phù hợp của những phương thức đó là ở chỗ ban đầu cần giải quyết được vấn đề sức mạnh, còn sau là sử dụng hệ tư tưởng, công thức, các phương tiện thông tin đại chúng”.

Vào những năm 1985 - 1991, những ý định đó đã không vượt quá hình thái chống đối như người ta đã từng biết tới trước đây. Chúng sơ khai và lạc hậu, hoặc không phù hợp tình hình, hoặc bị kẻ thù chi phối. Những con người cầm đầu những ý định đó đã đứng ngoài những cơ chế hiện thực của “thời tiết” chính trị, đứng ngoài tổ chức và các mối quan hệ. Họ không có những thông tin cho phép phát hiện ra những nguy cơ có thực. Hơn nữa, những con người đó, thay vì đấu tranh với kẻ thù, họ lại hành động một cách ngẫu hứng, truyền thống. Trong trường hợp này, hành động ngẫu hứng được xem như một hình thức bị động, còn đấu tranh với kẻ thù là chủ động). Những lời nói của họ không có sức mạnh. Sự kháng cự bị hạ thấp tới mức trở thành những mâu thuẫn của những cá nhân riêng lẻ, chỉ ở mức thông tin cho dân chúng về diễn biến của thảm họa.

Như một người phân tích hệ thống thực thụ, Iu. V. Bondarev, khi phát biểu tại Hội nghị Đảng lần thứ XIX, đã nói một cách chính xác rằng đất nước “giống như chiếc máy bay đã cất cách lên không trung mà không biết liệu có sân danh cho hạ cánh”. Những điều kiện cho phép ngăn chặn quá trình cải tổ như : có một trung tâm độc lập, có một hệ thống tư tưởng mới, có thông tin và “những nhà máy tư duy” thì lại không có, chính vì thế không thể chiếm được lợi thế và không thể ấn định những nguyên tắc của mình cho cuộc chơi.

Yếu tố cơ bản nhất làm cho sự kháng cự bị thất bại là việc thiếu một trung tâm thống nhất (thường được gọi là chế độ tập trung chính trị). Ban lãnh đạo có lòng yêu nước, vốn chỉ quen hành động theo khuôn khổ cũ, cũng đã có những vị trí rất cao: trong BCHTW ĐCS Liên Xô có Bí thư O. X. Senin; trong BCHTW ĐCS Azerbaidzan có Bí thư thứ hai V. P. Polianichko; trong BCHTW ĐCS Latvi có Bí thư thứ nhất A. P. Rubiks; trong Khu ủy vùng Lêningrad có Bí thư thứ nhất B. V. Gidaspov; trong Xô Viết Tối cao Liên Xô có đại biểu nhân dân, Chủ tịch nhóm đại biểu “Liên bang” Iu. V. Blokhin; trong KGB Liên Xô có Cục trưởng Cục “C” (Tình báo mật), thiếu tướng Iu. I. Drozodov, có Cục trưởng Cục Phân tích thông tin KGB Liên Xô N. X. Leonov; trong Viện Công tố Liên Xô có Cục trưởng Cục Giám sát thực thi pháp luật trong KGB Liên Xô V. I. Iliukhin,... Tất cả mà chỉ “như một”, họ đã hành động tản mạn, mỗi người chỉ theo kiểu tài tử và ngây thơ chính trị, thậm chí đôi lúc còn rất tin tưởng vào Kẻ Phản bội Tối cao của mình.

Đương nhiên, sự kháng cự cũng còn có cả những nguyên nhân khách quan. Song không thể nói rằng chúng ta không được biết trước. Chí ít thì cuốn sách “CIA chống lại Liên Xô“ của Nikolai Nikolaievich Iakovlev đã được xuất bản lần cuối cùng vào năm 1986 với số lượng lớn. Để đến bây giờ nó chỉ còn là câu chuyên ngụ ngôn! Hơn nữa, có quá ít người có thể thấu tỏ được cái chung giữa những gì được viết với thực tiễn cuộc sống, giữa những kế hoạch nổi tiếng với quá trình cải tổ.

Một ví dụ khác. Những lời nói nổi tiếng của A. Dalles, được dẫn ra trong cuốn sách “Thách thức thế kỷ” của A. Ivanov và đã từng vang trên màn ảnh trong toàn quốc, được trích dẫn ra tại trường đại học ở Novoxibirxk “Nhân vật Loxnov vạch ra chương trình phá hoại và tiêu diệt đất nước chúng ta... đưa đất nước chúng ta vào cảnh hỗn loạn...”

Dù sao, sinh viên cũng chỉ là những con người bình thường. Sau khi được nghe những đoạn trích dẫn từ cuốn sách đó, họ đã nói: Mọi sự đã xảy ra như những gì nhân vật Loxnov ước mơ. Thậm chí một số người trong họ đã nói thẳng: toàn bộ sự hỗn loạn hiện nay trong nước của chúng ta đã được lập trình. Chí ít thì chúng ta có thể khẳng định điều đó một cách đúng đắn...”. Vậy là chúng ta “tất cả cùng nhau” đã đi tới điểm tận cùng.
__________________________________
1. Lời này của M. X. Gorbachov không có trong văn bản. Đây là ông ta bắt chước lời của nhân vật gián điệp trong một phim hoạt hình đầu những năm 1990 - Mister Fox.
2. Vương quốc vào đầu thế kỷ 10 ở vùng Pyrenee. Một phần lớn đã bị Tây Ban Nha chiếm vào năm 1512. Đến năm 1589, phần đông bắc còn lại sáp nhập vào Pháp. ND.
3. Arman Jan de Plessi, 1585 - 1642, làm Hồng y giáo chủ từ năm 1622, từ năm 1624 cầm đầu Hội đồng Hoàng gia - trên thực tế là người đứng đầu nước Pháp; người đã tạo điều kiện củng cố chủ nghĩa tuyệt đối, tước bỏ mọi quyền lợi chính trị của huguenots - những kẻ chống đối chính phủ hoàng gia Pháp; đã từng tiến hành những cuộc cải cách hành chính, tài chính và quân sự; từng đàn áp các cuộc khởi nghĩa của dân chúng, đưa nước Pháp sa lầy vào cuộcChiến tranh 30 năm 1618 - 1648. ND.
chuongxedap:

Tháng Tám năm 1991

   Sự chuẩn bị của các phương tiện thông tin đại chúng

Tháng 8 năm 1991 - đây chính là điểm tận cùng trong một hệ thống trước đó đã từng bị đẩy tới tình trạng cân bằng không vững chắc, chỉ cần giáng một đòn nhẹ, nhưng được tính toán chính xác vào chỗ dễ tổn thương nhất thì hệ thống đó đã lật nhào, tan vỡ. Toàn bộ “cải tổ”, toàn bộ những sự kiện diễn ra trước đó đã trở thành khúc dạo đầu cho những gì được hoàn thành trong tháng 8 đó. Tiến trình này của các sự kiện đã dẫn một loạt đại diện tinh hoa nhất của Liên Xô đi đến quyết định thành lập ủy ban quốc gia về tình trạng khẩn cấp

Không thể hiểu nổi Tháng 8 năm 1991 ở Matxcơva nếu thiếu phân tích về những quá trình đã diễn ra ngay trước đó. Nó bao gồm: tháng 4 năm 1989 ở Tbilixi; tháng 1 năm 1990 ở Baku; tháng 1 năm 1991 ở Vinhius. Và điều chủ yếu lại là chưa một ai giải thích được sự thật về việc chuẩn bị và tiến hành những hành động như vậy vào thời điểm tháng 8 năm 1991. Mọi người đã chấp thuận chúng như những gì mà các đạo diễn của chúng đưa ra. Tất cả những thảm kịch đó được giải thích như là “những nỗ lực của Trung ương sử dụng sức mạnh thô bạo để ngăn chặn bước tiến của quảng đại quần chúng nhân dân trên con đường tới tự do và dân chủ”.

Để bổ sung cho dự báo về tính tất yếu của sự phục hồi cộng sản, người ta đã dần dần khai thác đề tài này trên các phương tiện thông tin đại chúng. Các nhà chính trị học như Andranik Migranian và Igor Kliamkin là những người đầu tiên cảnh báo về sự tấn công tất yếu của chế độ độc tài. Câu chuyện “Người không trở về” của Alekxandr Abramovich Kabakov (Bình luận viên của Báo “Tin tức Matxcơva”) đã được xuất bản vào tháng 5 năm 1988 và đã chiếm một vị trí đặc biệt trong những người có tư duy sự kiện mẫu mực. Nó khắc họa về tình hình các cuộc chiến ở Matxcơva và toàn bộ thảm họa.

Trong câu chuyện “Người không trở về” có thể liệt kê thấy cả những lời cảnh báo về những sự kiện có thật, cả những hành động khiêu khích mà giờ đây có liên quan tới “triều đình”. Về mặt nguyên tắc, điều này có thể chấp nhận được vào những năm 1990.

“- Mới đây tôi đã nghe thấy nói rằng người ta có ý định tổ chức một phong trào dân chủ, một cuộc tuần hành cảnh báo về âm mưu đảo chính quân sự. Thật ra, có ai đó đã nói rằng quân đội không đủ khả năng để thực hiện điều đó, mà chỉ có KGB - một sức mạnh đồng tâm nhất trí - mới có thể làm nổi điều này.

- Tôi cho rằng điều đó vào lúc này là chưa thể xảy ra. tuy nhiên, nếu xuất hiện một nhân vật thực sự mạnh, và tất nhiên là người bảo thủ, thì những ai định chống đối nền dân chủ sẽ đi theo nhân vật đó...”.

Sau những lời cảnh báo như vậy về nguy cơ một cuộc bạo loạn, những kẻ thù chống lại đổi thay đã bị rơi vào một cái bẫy chiến lược: Kể từ lúc đó, bất kỳ một âm mưu chống đối nào, cho dù còn non nớt và khó nhân ra đến máy, cũng đều bị quy kết là “tiền đề” của một cuộc bạo loạn. Kể cả những sự kiện không hề có bất cứ mối liên hệ trực tiếp nào tới cuộc bạo loạn trong tương lai. Ví dụ như vào tháng 4 năm 1991, trên báo chí đã xuất hiện một bức ảnh với lời chú thích: “Những chiếc xe bọc thép chở quân (BTR) này vừa mới đây đã xuất hiện tại các doanh trại ở Chernysevxk. Những đoàn xe hàng trăm chiếc BTR như vậy đang được di chuyển tới các doanh trại khác ở Matxcơva, và những người Matxcơva đã nhìn thấy chúng”.

Ngay sát trước những sự kiện như vậy người ta đã nói tới việc khi xảy ra tình trạng khẩn cấp, về mặt nguyên tắc, các cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương buộc phải hành động, đồng thời lập ra CZ (một hội đồng rút gọn), trong đó phải bao gồm: Bí thư thứ nhất, Chỉ huy trưởng cảnh sát và người lãnh đạo cơ quan an ninh quốc gia bảo vệ chủ thể chính quyền.

“Một nhân vật cung cấp thông tin yêu cầu dấu tên đẫ giải thích rằng CZ - đó là một cơ cấu để chuẩn bị cho đất nước trong trường hợp “điều hành giai đoạn đặc biệt”. Chỉ có Chính phủ Liên Xô mới có quyền tuyên bố về giai đoạn như thế, và lý do để tiến hành “giai đoạn đặc biệt” không chỉ là chiến tranh.

CZ hành động trên cơ sở quyết định của BCHTW ĐCS Liên Xô và của Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô ngày 19 tháng 6 năm 1984, và Sắc lệnh của Tổng thống Liên Xô ngày 12 tháng 11 năm 1990, được gọi là “Về việc trao cho các cơ quan lập pháp và hành pháp của Xô Viết đại biểu nhân dân chức năng hoạch định và công tác động viên”. Một trong số báo ra vào tháng 7 năm 1991 đã đăng tải kế hoạch hành động của các cấp chính quyền cao cấp “... Khi xuất hiện tình hình nguy cấp, kế hoạch Chiến dịch “Metel” sẽ được áp dụng.

Nếu một phần chiến dịch của kế hoạch bị thất bại, người ta sẽ cầu cứu Matxcơva sử dụng kế hoạch Chiến dịch “Taifun”. Điều này có nghĩa là, tối thiểu, người ta sẽ tung ra các đơn vị Đổ bộ đường không hoặc sư đoàn mang tên Dzerzinxki. Bài báo này đã mô tả chi tiết thành phần, nhiệm vụ, quyền hợp pháp, cơ cấu của CZ ở cấp địa phương: “Trong những năm gần đây, bản thân công thức hành động trong những tình huống khẩn cấp đã thay đổi. vào cuối những năm 1950 - đầu những năm 1960, rõ ràng học thuyết chế áp quân sự đối với đám đông gây rối từng được tích lũy trong “các cuộc điều chỉnh hữu nghị” ở Đông Đức năm 1953 và ở Hunggari năm 1956 đã chiếm ưu thế. Kinh nghiệm đó đã được người ta sử dụng vào ngay nội bộ quốc gia khi đàn áp làn sóng phản đối tại Gruzia năm 1957, tại Novocherkasxk năm 1962. Cảnh sát khi đó phải kiềm chế được đám đông trước khi quân đội tới.

Từ đầu những năm 1970, sơ đồ được thay đổi. Quân đội bị đẩy xuống hàng thứ hai và chức năng điều hòa chiến dịch dần dần được chuyển sang Bộ Nội vụ. Chiến dịch như thế chủ yếu được tiến hành ở hai cấp: cấp nước cộng hòa và cấp liên bang.
Nhiệm vụ giải tán đám đông gây rối được đặt lên vai nhóm cảnh sát đặc biệt. Nó bao gồm việc chuyển các đơn vị cảnh sát từ các vùng lân cận đến những địa điểm dự báo hoặc đã xảy ra sự kiện. Ví dụ, khi xuất hiện tình huống khẩn cấp tại Alma-Ata, kế hoạch của Chiến dịch “Metel” đã được thực hiện.

Người ta đã chuyển các hạ sĩ quan, binh sĩ đang phục vụ tại các đơn vị đổ bộ đường không, các học viên từ các trường cảnh sát ở Novoxibirxk, Taskent, Karaganda, Krasnoiarxk, Permi, Kemerovo, Irkurxk, Frunze, Barnaul, Dusanbe, Omxk tới thành phố Alma-Ata. Nếu như phần đầu này của chiến dịch không thành công, người ta sẽ cầu cứu Matxcơva và đưa kế hoạch của Chiến dịch “Taifun” vào sử dụng - các đơn vị Đổ bộ đường không hoặc sư đoàn mang tên Dzerzinxki sẽ được tung vào chiến dịch”. Bài báo trên còn đăng tải cả sơ đồ chiến dịch bao gồm phiên hiệu và nhiệm vụ của các đơn vị.

Cuối cùng, sang tới tuần thứ hai của tháng 8, trên đài phát thanh Matxcơva đã xuất hiện thông báo “... trên toàn nước Nga - trời quang mây”. Trung tâm Khí tượng thủy văn. Trung tâm Khí tượng thủy văn, như mọi người đã biết, cũng tham gia cả hoạt động tình báo và dự báo thời tiết. Trung tâm rõ ràng là một trung tâm chính trị.
chuongxedap:

   Sự chuẩn bị có phân tích

Nếu các phương tiện thông tin đại chúng nhằm vào toàn bộ dân chúng, thì các báo cáo phân tích được dành cho những cầu thủ chủ chốt.

Chính phía Mỹ cũng đã chuẩn bị cho sự kiện tháng 8. Cho tới nay, công luận chỉ mới biết tới một tài liệu do Mỹ soạn thảo - Phụ lục số 7, - do nó quá nổi tiếng. Có thể nhận thấy các nhà phân tích Mỹ, về mặt nguyên tắc, chưa nắm được thông tin về vai trò đích thực của M. X. Gorbachov như một điệp viên có thế lực (do tính chất tối mật của nó), còn đối với các nhà nghiên cứu Nga hiện nay, đây lại là quan điểm cơ bản trong những kết luận của họ. Tuy nhiên, người Mỹ, ở mức độ cần thiết nhất định, cũng đã có những khuyến nghị cho các nhà lãnh đạo hàng đầu ở quốc gia mình.

Dự án “Bạo loạn” có tới hai phương án: có hoặc không có M. X. Gorbachov. Chúng ta đã biết rằng phương án đầu tiên đã diễn ra, song còn chưa biết tới phương án “không có ông ta”, cho dù đã có được thông tin từ một người thạo tin về khả năng phát triển của các sự kiện: “Trước cuộc bạo loạn khá lâu, khi tôi được người ta lần đầu tiên cho biết về kịch bản có thể của bạo loạn, tôi đã trợn tròn cả hai mắt. trong đó có cả cuộc kháng chiến trong Nhà Trắng Liên Xô; cuộc chiến ở ngoại ô Matxcơva; tập trung đấu tranh tại Piter hoặc Xvedlovxk; thành lập Chính phủ dự bị ở Pribaltik, thậm chí từ nước ngoài...; Biết bao nhiêu là dự kiến về các kịch bản của một cuộc bạo loạn. Trong đó có cả “phương án Algiêri” - một nhóm quân đội sẽ nổi loạn tại một nước cộng hòa nào đó. Cuộc nổi dậy của dân chúng Nga ở các nước cộng hòa.

Dần dần, kịch bản đã phát triển tới mức, mọi diễn biến sẽ không còn bị phụ thuộc vào vai trò của Gorbachov: một cuộc bạo loạn hoặc sẽ xảy ra do các lời hứa viển vông của Gorbachov, hoặc được ông ta chấp thuận, hoặc sẽ chống lại chính ông ta... Phương án của một cuộc bạo loạn “chống Gorbachov” được coi là thuận lợi nhất cho chúng tôi. Và chúng tôi đã chờ xem nó sẽ có diễn ra như vậy không? Tuy nhiên, chúng tôi vẫn coi phương án này sẽ đem lại một thành công to lớn. ủy ban quốc gia về tình trạng khẩn cấp đã chọn được một phương án mà chúng tôi đã từng mơ ước - không chỉ thuần túy chống Gorbachov, mà còn cách ly được ông ta. Sau khi nhận thấy một cú chuyền bóng thuận lợi đến như vậy, Eltxin không thể không đáp lại bằng một đòn tuyệt vời... Tình hình vào những ngày này rất căng thẳng”.

Lý giải lời thú nhận này của G. X. Popov, V. X. Pavlov đã viết: “Sự thông thạo của Popov trong những vấn đề này là không thể nghi ngờ, song thái độ vô liêm sỉ của sự cởi mở thật dễ hiểu - những kẻ chiến thắng đang chia nhau vòng nguyệt quế. Ngoài ra, trong vấn đề này, tính thận trọng vẫn không rời bỏ Popov. Ông ta chỉ hé mở ra những bí mật ai cùng đã biết, mà không hề nói tới việc ông ta được ai giới thiệu và điều quan trọng là ông ta có được thông tin từ nguồn nào; về việc những ai là người có được lời chỉ dẫn đặc biệt như thế?”.

Trong suốt thời gian do thám khắp Liên Xô, Djeremi Izrael vẫn chưa thỏa mãn với việc gọi các sự kiện bằng tên của chúng. A. A. Prokhanov nhớ lại: “Tôi nhớ tới cuộc nói chuyện tại Văn phòng báo “Den” với sép của RAND Coporation” là Djeremi Izrael. Trên bàn để tấm sơ đồ được vẽ bằng những nét bút cẩu thả. Vòng tròn “trung tâm Kremli” có đại diện là M. X. Gorbachov, vòng tròn “trung tâm song song” có đại diện là B. Eltxin, vòng thứ bai chỉ “nhà vàng” - từ đó có một nhóm cố vấn chỉ đạo nó và các vòng tròn khác. Tay người Mỹ chất vấn rằng các cố vấn cần phải làm gì để kết nối toàn bộ quyền lực từ “vòng thứ nhất” tới “vòng thứ hai”: “Trong vòng vài ngày, liệu có thể thiết lập được một tình trạng vô chính phủ để loại bỏ Gorbachov và trong bầu không khí xã hội hỗn loạn có thể phong tỏa được việc điều hành đối với quân đội, KGB và cảnh sát của Eltxin không? Điều đáng ngạc nhiên trong thái độ cởi mở đó là thông tin được phát ra từ chính một nhân vật đã một thời được coi là lãnh tụ của những người yêu nước. Điều này chỉ có thể giải thích được: hoặc vấn đề này đã được quyết định từ trước đó, nên có thể phát biểu một cách công khai như vậy cho tất cả mọi người, hoặc ở đây chỉ toàn những người được tin tưởng tuyệt đối.

Trong bất cứ trường hợp nào, kế hoạch về “trung tâm song song” vào thời điểm tháng 8 cũng đều hoàn thiện về mặt lô gíc - được tiến hành trong thực tế. Bởi “ngay từ năm 199, trong các nhóm nghiên cứu của Hội đồng An ninh quốc gia Mỹ, họ đã bắt đầu thảo luận ý định về việc thành lập ở Nga một trung tâm kinh tế, chính trị toàn liên bang song song.

Vào tháng 2 năm 1991, vấn đề này đã được nhóm thân cận với Eltxin tích cực bàn định. Việc khởi thảo một kế hoạch khả thi của phương án “trung tâm” này đã được thông qua Eltxin và Xô Viết Tối cao Liên Xô. Người ta đã sử dụng những kết luận của G. Popov - một chuyên gia vừa từ Mỹ trở về, - vào phân tích nội dung chính trị - kinh tế của trung tâm song song này.

Tại Mỹ, Popov đã có những cuộc tiếp xúc với ngoại trưởng Mỹ Biker cùng nhóm nghiên cứu của ông ta, với các chuyên gia CIA và các nhà nghiên cứu thuộc Bộ Ngoại giao Mỹ. Thành tố chủ yếu của âm mưu này là thiết lập ngay trên lãnh thổ Liên Xô một cơ chế thị trường - điều đó có nghĩa như là một thất bại không thể đảo ngược đối với “đế chế Xô Viết”.

Người ta dẫ ra những sự kiện tương tự từng xảy ra trong lịch sử: “Vào thế kỷ 16, Lord Berly - chỉ huy cơ quan tình báo Anh, cùng với nhân viên thân tín của mình là Wolsing đã quyết định ngăn chặn kỳ vọng lên ngôi của Maria Stewart. Song phải làm cách nào? Bắt giam và thủ tiêu bà ta thì không thể được. Cuối cùng, họ đã “giúp” bà ta tổ chức một âm mưu chống lại nữ hoàng Elizabeth. Họ đã gài điệp viên Giford vào tổ chức của Maria Stewart. Tay này khôn khéo kích động những người của Maria Stewart tổ chức đảo chính.

“Người người của ủy ban quốc gia về tình trạng khẩn cấp” ở thế kỷ 16, trong đó có cả Maria Stewart đã bị xử tử hình. Trong lịch sử ngành tình báo, đây là một ví dụ kinh điển về phương pháp được gọi là “đảo chính trong đảo chính”.
“Gorbachov đã thành lập ra ủy ban quốc gia về tình trạng khẩn cấp, dường như là để kiềm chế xu hướng ly khai của các nước cộng hòa. Ông ta đã tuyên bố rằng đó là một tổ chức có chức năng kiểm soát tình hình. Trong những trường hợp cần thiết, ủy ban này sẽ tuyên bố tình trạng khẩn cấp một cách hợp pháp. Các nhân vật cụ thể nằm trong thành phần của ủy ban này là: Kiuchkov, Iazov (Bộ trưởng Quốc phòng Liên Xô, Nguyên soái Liên Xô), Pugo và một số người khác. ý tưởng về sự cần thiết của tổ chức này là tập hợp một bộ phận lãnh đạo nhất trí chống lại sự tan rã của đất nước, có quyền phủ quyết và tước bỏ mọi quyền lực, cũng như những khả năng liên kết với thế giới bên ngoài. Đây chính là uẩn khúc trong khía cạnh nhân sự của sự kiện tháng tám năm 1991 và trong việc loại bỏ những nhân vật có đầy đủ khả năng và quyền hạn ngăn chặn việc Liên Xô tan rã. B. K. Pugo và X. F. Akhromeiev - hai nhân vật kiên cường nhất trong số những người mà ta từng biết, - đã không được tham gia vào kịch bản và đã bị sát hại. Điều này đã tác động tới những đối tượng còn giấu mặt - chúng đã lo sợ. Số nhân vật thượng lưu còn lại đã phản bội lại Liên Xô và ĐCS Liên Xô. và toàn bộ thời gian còn lại cuối năm 1991 - 4 tháng tồn tại cuối cùng mang tính hình thức của Liên Xô, - đã khẳng định điều đó. Những nhân vật có thể ngăn chặn sự sụp đổ: hoặc bị bắt giam, hoặc đã chết. Nếu như trước đây chúng ta chưa từng biết rằng trong giới thượng lưu lãnh đạo đất nước lại có các phe nhóm như: những người yêu nước thiếu tổ chức đã bị giám sát; những người có quan điểm trung lập dần dần ngả sang phía kẻ thù của nỗ lực ngăn chặn việc liên bang tan rã; “những điệp viên có thế lực” và những kẻ ủng hộ tích cực cho việc hình thành các clann, thì đến lúc này, những người thuộc nhóm thứ nhất đã không còn tồn tại trong thực tế.

Sự kiện tháng 8 năm 1991 sẽ còn được tiếp tục phân tích. Rõ ràng nó vẫn chứa đựng những vấn đề bí ẩn đối với các nhà nghiên cứu, kể cả với những người phân tích ở phương Tây. Việc phân tích vụ “biến loạn” cần xác định được vai trò của các cơ quan tình báo phương Tây cũng như của các thế lực thù địch khác, những lợi ích của phương Tây và của Liên Xô cũng như mối quan hệ giữa chúng... vai trò của cuộc “biến loạn” và vì sao nó lại thất bại. Để dập tắt một đám cháy, những người lính cứu hỏa có thể tạo nên một đám cháy ngược chiều. Rất có thể, để chiến thắng một cuộc đảo chính thực sự dường như đã có thể ngăn chặn được việc đất nước rới vào thảm họa, rõ ràng là một hành động khiêu khích đã giữ vai trò chủ đạo trong toàn bộ chuỗi sự kiện phức tạp này.

Trong quá trình chuẩn bị và soạn thảo các tài liệu, nổi lên hai nhóm nhân vật. một trong số đó đã được thành lập trực tiếp bởi nhân vật đứng đầu: “Vào năm 1991, các biện pháp đặc biệt đã trở nên vô cùng cần thiết để bảo đảm việc nâng cao sản xuất, xây dựng và cải tổ cơ cấu. Có tới 3 nhóm chuyên gia tiến hành soạn thảo kế hoạch và đều nằm dưới sự kiểm soát, điều hành của M. X. Gorbachov. Một nhóm do A. Tizakov (thành viên tương lai của ủy ban quốc gia về tình trạng khẩn cấp) lãnh đạo; một nhóm khác do A. Miliukov (lúc đó và sau này đều là cố vấn đáng tin cậy của các nguyên thủ, các tổng thống...) lãnh đạo; nhóm thứ ba do V. Veliko - Phó thủ tướng thứ nhất - lãnh đạo.

Nhóm thứ hai nằm trong guồng máy Trung ương của KGB Liên Xô. Có thể gọi nó bằng tên của những nhân vật chủ chốt - Zizin và Egorov: “Ngày 9 tháng 12, Kriuchkov triệu tập viên thiếu tướng KGB Viacheslav Zizin - Phó tổng cục trưởng Tổng cục I (Tình báo) và Alekxey Egorov - đại tá KGB, Trưởng ban thư ký của Chủ tịch. Kriuchkov đã thừa ủy quyền của M. X. Gorbachov giao nhiệm vụ cho Zizin và Egorov soạn thảo một báo cáo về những giải pháp hàng đầu “nhằm ổn định” tình hình trong nước trong trường hợp áp dụng tình trạng khẩn cấp.

Bản báo cáo đó đã được trình lên ông ta, kèm theo là bản dự thảo sắc lệnh của Tổng thống M. X. Gorbachov và quyết định của Xô Viết Tối cao Liên Xô về việc tiến hành tình trạng khẩn cấp trong nước. Theo lời của Egorov, đồng thời với việc được M. X. Gorbachov ủy quyền, một số đồng chí khác cũng dã soạn ra tài liệu về việc áp dụng thể chế tổng thống trực tiếp tại Litva”. “Ngày 5 tháng 8, Kriuchkov cho gọi viên phó của mình là Grusko cùng với Egorov và Zizin. Pavel Grachov cũng có mặt ở đó. Tại cuộc họp này, Kriuchkov đã ra lệnh chuẩn bị thêm một bản báo cáo phân tích mang tính chất chi tiết hơn nữa cho trường hợp tiến hành tình trạng khẩn cấp trong nước. Công việc - vị Chủ tịch KGB giải thích, - cần được tiến hành tuyệt đối bí mật. Dựa vào đó, Grachov, Egorov và Zizin đã được cử tới một khu an dưỡng của Tổng cục II (Phản gián) nằm gần làng Maskino trên đường đi Lêningrad để viết báo cáo. Trong bản báo cáo này những người soạn thảo cũng đã cảnh báo cho Kriuchkov rằng việc tiến hành tình trạng khẩn cấp có thể gây nên phản ứng tiêu cực trong một bộ phận dân chúng”.

Đại tá Egorov Alekxêivich Georgievich - trợ lý của Tổng cục trưởng Tổng cục II cho biết: “Lần đầu tiên tôi được điều động làm công tác soạn thảo về vấn đề tiến hành tình trạng khẩn cấp trong nước vào khoảng tháng 12 năm 1990. Vào ngày 15 - 16 tháng 8, Kriuchkov giao cho chúng tôi chuẩn bị tài liệu về “Những giải pháp hàng đầu mang tính chất luật pháp, chính trị - xã hội, kinh tế cần được thực hiện trong điều kiện tình trạng khẩn cấp. Kriuchkov đã lôi từ trong cả tập tài liệu của mình ra bản dự thảo mà tôi và Zizin đã chuẩn bị trước cuộc họp, hướng về những người tham gia cuộc họp, ông ta đề nghị mọi người tìm hiểu về các giải pháp sẽ được tiến hành khi ban bố tình trạng khẩn cấp. Tôi muốn lưu ý mọi người rằng vào thời điểm diễn ra cuộc họp này tập tài liệu đó vẫn chưa được gọi là “Quyết định số 1 của ủy ban quốc gia về tình trạng khẩn cấp” mà tên gọi quy ước của nó là “Về những biện pháp cấp bách nhằm ổn định tình hình chính trị và kinh tế trong nước”.

Cho tới nay, 10 năm đã qua đi, mọi người đã biết được rằng có tới 4 phương án cho trường hợp tình hình phát triển tới mức nguy hiểm: tình trạng khẩn cấp trong nước; tình trạng khẩn cấp ở Matxcơva; thể chế tổng thống trực tiếp trong nước và thể chế tổng thống trực tiếp ở Matxcơva. Ngày tháng của văn kiện này là tháng 12 năm 1990.

Sau “biến loạn” tháng 8, người ta bắt đầu chuẩn bị có một cuộc “biến loạn” tháng 10 năm 1993 về vấn đề “Nguy cơ an ninh và sự cần thiết hợp tác của các nước cộng hòa” đề cập tới khả năng phục thù sự thất bại của “biến loạn” tháng 8. tài liệu này đã cảnh báo về khả năng không chỉ có một cuộc biến loạn. “Sự kiện gây chấn động trong tuần qua rõ ràng được bắt nguồn từ việc tài liệu “Nguy cơ an ninh và sự cần thiết hợp tác của các nước cộng hòa” xuất hiện công khai. Tài liệu này được soạn thảo tại Cục Phân tích KGB Liên Xô và nó phác họa nên một bức tranh ảm đạm chứa đầy nguy cơ cũng như về một ngày mai tươi sáng của chúng ta.

Tài liệu này chỉ là một trong số cả đống tài liệu do các nhà nghiên cứu ở Vụ chính trị - quân sự thuộc Viện Mỹ và Canada của Viện hàn lâm khoa học Liên Xô, Viện Châu Âu của Viện hàn lâm khoa học Liên Xô, cũng như của các nhà lãnh đạo thuộc hai cục của KGB Liên Xô soạn thảo dành cho các nghị sĩ. Cục Kinh tế KGB thì cảnh báo về khả năng những cuộc khủng hoảng năng lượng ở Matxcơva và những vùng xa trung tâm, còn Cục Phân tích thì cảnh báo tới khả năng phục thù của những người cộng sản.
chuongxedap:

Những mô tip của các cầu thủ trụ cột

Hồi chuông thứ 3 của vở kịch mang tên “Biến loạn” đã vang lên vào ngày 17 tháng 6 năm 1991 tại phioên họp của Xô Viết Tối cao Liên Xô. Chủ tịch KGB Liên Xô V. A. Kiuchkov giải trình cho các đại biểu về bản báo cáo có tiêu đề “Về những kế hoạch của CIA tuyển dụng điệp viên có thế lực trong số các công dân Xô Viết” do bộ phận Tình báo đối ngoại soạn thảo trình xin chữ ký của Iu. V. Andropov. Điều này chỉ xảy ra khi sự tan rã của Liên Xô đã được ấn định. Không phải 3 ngày diễn ra biến loạn tháng 8 năm 1991, mà chính sự kiện này đã ngay lập tức được coi là bước ngoặt then chốt.

Vì sao M. X. Gorbachov chấp nhận vai trò của mình trong vở kịch tháng 8 đó, nếu kết cục của nó là một sự tự sát chính trị? Động cơ ứng xử của ông ta chỉ có thể duy nhất là: ông ta không hề nghi ngờ rằng mình phải tự bươn chải một mình. Ông ta đã quan niệm một cách sai lầm rằng trong hoàn cảnh đó chỉ một mình ông ta được lựa chọn, thậm chí còn nhận được những lợi ích chính trị xứng đáng: “Sự kiện tháng 8 năm 1991 có lô gic và tiền sử của nó. Nó đã được nhiều người chứ không riêng một mình Gorbachov nghiền ngẫm và chuẩn bị từ rất lâu trong đó. Bản thân Gorbachov cũng có những nguyên nhân và mở rộng riêng sâu xa của mình - duy trì và củng cố quyền lực của cá nhân ông ta bằng bất cứ giá nào. Cần phải loại bỏ nguy cơ lơ lửng trên đầu mình, xác định cho được “những kẻ tội đồ” của sự suy thoái kinh tế và của sự tan rã đất nước, tiêu diết bất cứ thế lực nào có khả năng cản trở những kế hoạch của ông ta vào thời điểm đó”. Nỗi lo sợ của Gorbachov trên chuyến bay từ Foros trở lại Matxcơva đã được giải thích bởi chính điều này. Người ta nói với ông ta rằng toàn bộ cuộc biến loạn được nhằm để loại bỏ những kẻ thủ cựu, rằng chính vị Thủ tướng V. X. Pavlov đang yêu cầu trao cho mình nhiều quyền lực hơn. Song không chỉ tất cả những kẻ thủ cựu, mà cả chính Gorbachov cùng bị loại bỏ. Ông ta đã từng vững tin vào thành công của chiến dịch - bởi tất cả những chiến dịch nhằm làm cho Liên Xô tan rã, dù lớn hay nhỏ, từ trước đến nay đều diễn ra thuận buồm xuôi gió, còn bản thân ông ta vẫn bình yên vô sự (nguyên văn - vẫn không bị ướt), và chắc rằng lần này cũng vậy.

M. X. Gorbachov đã tham gia vào cuộc chơi với chính động cơ như vậy nên ông ta hoàn toàn không hề nhận thấy đó là sự tự sát đối với vai trò của bản thân và cũng chẳng thể nhận ra việc mình bị kẻ khác lợi dụng. Đây chính là thời điểm để khẳng định rằng đánh giá ông ta như một kẻ phản bội quyền lợi của nhân dân và của đất nước là hoàn toàn công bằng, tuy chưa thật khách quan. Người đầu tiên nói ra điều này một cách công khai là V. I. Iliukhin - Cố vấn tư pháp quốc gia cấp 2 (tương đương hàm trung tướng trong lực lượng vũ trang) - người đã từng là thủ trưởng Cơ quan Tổng công tố Liên Xô về giám sát việc thực thi pháp luật trong KGB Liên Xô, ủy viên Hội đồng tháng 11 năm 1991 khởi tố vụ án hình sự chống M. X. Gorbachov theo Điều 64 (Tội phản bội Tổ quốc). Bằng cách này, ông ta đã thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân của mình. Vào thời điểm đó, đây là một thái độ được chào đón, song từ đó đến nay đã nhiều năm trôi qua, mọi sự vẫn “đóng băng” ở lời buộc tội, thứ nhất, vì nó đã mất đi tính thời sự; thứ hai, nó chỉ là đề tài để các nhà hoạt động chính trị đầu cơ.

M. X. Gorbachov, về thực chất, đã bắt đầu cuộc chơi vào lúc hoàng hôn của con đường công danh chính trị, mà không hình dung hết mọi sự phức tạp của nó. Thậm chí, ông ta còn cho rằng nếu lần này trở thành nhân vật số một trong nước, thì vai trò số một đó sẽ là mãi mãi trong mọi lĩnh vực. Ông ta đã không để ý rằng vẫn có những khả năng buộc ông ta trở lại tình trạng trước đây. Ông ta còn cho phép mình đề cập tới việc từ Foros trở về phiên họp của nghị viện Nga: “Dù thế nào, tôi cũng không thể nói ra toàn bộ sự thật cho các bạn”. Câu nói này có thể hiểu theo hai nghĩa: bản thân ông ta khi đó và đến bây giờ cũng không được biết toàn bộ sự thật.

Những gì liên quan tới lời buộc tội tội ông ta phản bội, theo tôi, là việc đưa ra một nhận xét đáng ngờ cho hàng triệu quần chúng và việc sử dụng nhận xét đó làm chứng cớ là thiếu cơ sở khoa học (thậm chí là phi đạo đức). Tất cả những gì được đề cập tới trong cuốn sách này đều xét theo quan điểm hệ thống, và cần phải nói rằng M. X. Gorbachov đã từng làm nhiều việc trong lĩnh vực đối ngoại gây tổn thất cho Liên Xô, trong đó ông ta đã chấp thuận mọi điều kiện, mọi quan điểm ngoại trừ những gì liên quan sâu sắc tới quyền lợi cá nhân. Ông ta đúng là một nhân vất nổi bật nhất đại diện cho rất nhiều kẻ tương tự ông ta trong giới thượng lưu ở Liên Xô. Tuy nhiên, đa số các tác giả từng viết về M. X. Gorbachov vào thời kỳ này mới chỉ đánh giá ông ta theo quan điểm đạo đức, tình cảm mà thiếu sự phân tích thật thấu đáo. Bởi, nếu còn nhớ tới thời kỳ này, có thể nhận thấy rằng liên quan tới diễn biến của cải tổ còn có hàng triệu người đã từng bỏ phiếu thuận trong cuộc trưng cầu dân ý vào ngày 17 tháng 3 năm 1991về việc phá tan Liên Xô. Còn những con người thực sự kiên quyết bảo vệ việc duy trì liên bang lại có quá ít. Chỉ có số ít người này có đủ thẩm quyền đạo đức để đánh giá vấn đề này. Hãy đẻ cho những người này và chỉ có những người này mới có thể ném những viên đá đầu tiên vào sự kiện. Bản thân tôi cũng không thể nhận lãnh được vai trò này.

Số phận “hậu liên bang” của M. X. Gorbachov đã được định đoạt avà đó là số phận không thể lựa chọn. Nếu có theo kịch bản của những bộ tham mưu “cải tổ” ở nước ngoài, thì việc loại bỏ ông ta vẫn là điều cần thiết và họ đã làm chứ không chỉ là suy nghĩ. Điều này cần được hiểu cho chính xác và tất cả những người đã có một thời đồng ý với vai trò “bắt cá cả hai tay” phải hiểu. Cái duy nhất trong khi thực hiện các kịch bản là bảo đảm mạng sống cho những nhà chính khách đã từng giữ vai trò hai mặt - Tổng thống Liên Xô M. X. Gorbachov, Phó Tổng thống Liên bang Nga A. V. Rutxkoi, Chủ tịch Xô Viết Tối cao Liên bang Nga R. I. Khasbulatov, chứ nó không nói rằng nếu có lần sau, thì theo kế hoạch, không cần phải có “tù nhân ở Foros” mà cần một kết cục đẫm máu. Như vậy là số lượng “những bí ẩn chết người” sẽ tăng theo tỷ lệ tương xứng. Vậy thì, “những ngài chính khách”, trước khi đeo mặ nạ cho mình để chơi trò hai mặt, hãy nghĩ cho chín rằng ai sẽ là người lật bỏ chiếc mặt nạ đó.

Có một điều đáng chú ý là M. X. Gorbachov đã không có đủ học vấn chính trị cần thiết để tiếp thu được những nhạy cảm trong điều hành. Nếu có được nhạy cảm đó, có thể ông ta sẽ vững vàng hơn những người bạn Mỹ trong trò chơi chính trị.

Vốn là người tiếp thu một cách cảm tính và theo cách đó điều hành những người có học vấn và có thông tin, nên ông đã không xác định được cho mình một con đường tối ưu nhất. Nếu ông ta biết cách nhìn nhận các quá trình, các sự kiện theo chiều ngược lại thi ông ta không thể có những hành vi và phản ứng cá nhân như thế trong một bức tranh dự báo toàn cảnh, và chỉ khi đó ông ta mới hoàn toàn có thể duy trì được vị trí quyền lực của mình.

Cần phải nói rằng cả V. A. Kriuchkov, cũng như M. X. Gorbachov, đã cho rằng mình sẽ thoát hiểm. Đối với nhân vật này, người ta cũng dành cho ông ta một giả thuyết làm yên lòng: “Mọi người sẽ phải trả giá, trừ ngài. Chúng tôi vẫn cần tới ngài”. Theo phương pháp loại suy này, có thể thấy rằng người ta cho V. A. Kriuchkov về vuờn cũng chính vì bởi ông ta đã không đủ tỉnh táo để nhận ra âm mưu. Cũng do “thất bại” với Vilnius mà vị Phó chủ tịch thứ nhất KGB Liên Xô là Đại tướng F. D. Bobkov đã phải về vườn (Phóng viên E. M. Albats của bóa “Tin tức Matxcơva” đã khẳng định rằng việc F. D. Bobkov phải về vườn là có cơ sở bởi chiến dịch ở Vilnius không được thuận lợi. Còn bản thân F. D. Bobkov lại khẳng định rằng việc cho ông ta về vườn xảy ra vào năm 9 tháng 1 năm 1991, trong khi sự kiện nổi tiếng ở Vilnius đến tận ngày 13 tháng 1 năm 1991 mới xảy ra).

Sự tráo trở vốn là bản tính của mọi âm mưu và nó là bảo đảm cho mục tiêu của âm mưu. Bản thân V. A. Kriuchkov, chỉ cùng với khán giả biết được vào cuối vở kịch, khi ông ta đã ở trong nhà tù Lefortovo.
chuongxedap:

Động cơ của G. I. Ianaiev vào thời điểm đó cũng đơn giản và dễ hiểu: sử dụng sức mạnh thô bạo như của loài chó nòi buldozer để chống chọi lại một cuộc tấn công có định hướng rõ ràng và được tổ chức tốt. Tuy nhiên, hương tấn công đã được lựa chọn hoàn hảo, còn sức mạnh của nó đủ để biến các phản ứng kháng cự, cho dù đúng đắn, biến thành sự tự sát. Rõ ràng chỉ còn con đường đàm phán với những nhân vật thượng lưu của các khu vực là ít xung đột hơn cả. Tuy nhiên, việc tiến hành một đường lối được suy tính thận trọng, có định hướng, có kế hoạch từ trước lại nằm ngoài khả năng trí tuệ của ngài Phó Tổng thống Liên Xô. Sự thiếu vắng một trí tuệ chính trị mẫn tiệp của ông ta đã tạo ra một ngưỡng lạc hậu - ủy ban quốc gia về tình trạng khẩn cấp đã tỏ ra bất lực trong việc kiểm soát các sự kiện. Thay vì phục hồi các các chức năng tái sản xuất và bảo vệ của đất nước, quy mô tan rã đã diễn ra ở mức sau đó Liên Xô suốt một thời gian dài không thể phục hồi được trong bất cứ lĩnh vực nào.

Dường như không có một ai, ngoài B. N. Eltxin lại quan tâm đến cái giá của cuộc khủng hoảng chính trị tháng 8. Ông ta không chỉ thoát hiểm, mà còn đạt được điều mong ước của mình đến mức ấy - toàn bộ quyền lực đã chuyển vào tay ông ta.

A. I. Lukianov là người luôn luôn ủng hộ một cách toàn diện đối với mọi sáng kiến của M. X. Gorbachov. Về phần mình, M. X. Gorbachov cũng luôn luôn ủng hộ toàn diện đích thân A. I. Lukianov. Đây là hai con người luôn cùng nhau hành động, đi đâu cũng có nhau và rất cần đến nhau. Chính vì vậy mà A. I. Lukianov mới có thể liều mạng lao vào mọi cuộc phiêu lưu chính trị cùng với kẻ đồng sàng của mình vì ông ta luôn có thể tin chắc rằng M. X. Gorbachov sẽ ủng hộ.

Điều ông ta đã lãng quên là ngoại trừ mối quan hệ “lịch sử” đặc biệt này, vẫn còn nhiều, rất nhiều yếu tố khác mà ông ta không tính tới, đó là chính M. X. Gorbachov cũng bị điều khiển, bản thân ông ta cũng bị rơi vào bẫy. “Nước lụt thì lút cả làng”. Đây cũng là điều thường thấy trong đời sống chính trị hiện thực. Và cũng chính vì vậy mà A. I. Lukianov mới có thể yên tâm đi nghỉ tại Valdai mà không hè ngờ rằng những tác giả khác của vở kịch, chứ không phải là người bạn đồng sàng, đã thu xếp vai trò của mình.

Tình cảnh trớ trêu như vậy cũng đã xảy ra với người trợ lý suốt đời trung thành, gần gũi với Tổng bí thư là V. I. Boldin.

Điều bất ngờ đối với chính mình, viên Tư lệnh Bộ đội đổ bộ đường không, Thượng tướng P. X. Grachov là một trong số những nhân vật hành động chủ chốt nhất cho dù ông ta không có được sự tin cậy đặc biệt của các tác giả kịch bản. Sự khởi đầu phần trò chơi của ông ta được tính từ giai đoạn KGB đang soạn thảo kịch bản cho ủy ban quốc gia về tình trạng khẩn cấp. Vào giai đoạn hai của công việc này, ông ta là người thứ 3 tham gia vào nhóm công tác của Zizin - Egorov, khi họ cần tới một viên tư lệnh của Bộ đội Đổ bộ đường không có khả năng tung quân của mình vào bất cứ đâu nhằm đánh chiếm vị trì then chốt “bằng một trung đoàn trong vòng hai giờ”, cho dù đây là một sức mạnh thô bạo vốn không phù hợp với những chiến dịch nhạy cảm.

KGB đã gia công P. X. Grachov một cách kheo léo đến mức chính ông ta cũng bất ngờ - người ta cho ông ta biết mọi âm mưu của chiến dịch, tác động tới vai trò của ông ta sao cho để chính ông ta sau đó tự nhận thức được đó là những mệnh lệnh của ai và ông ta cần thực hiện chúng thế nào, còn những mệnh lệnh nào thì có thể lờ đi. Và tới khi B. N. Eltxin gọi điện cho ông ta vào buổi sáng thì việc quyết định phải lệ thuộc vào ai - vào Tổng thống đầu tiên của Liên bang Nga B. N. Eltxin hay vào Bộ trưởng Quốc phòng D. T. Iazov - ở ông ta “đã chín muồi”. Kinh nghiệm từng trải của nhà tình báo tất nhiên thiên về nhân vật đầu tiên, lỡ có bị phán xét về tội không tuân lệnh hay “hiểu sai mệnh lệnh” cũng chỉ bị ở mức tối thiểu. Như bất cứ một ai khác, P. X. Grachov không thể thả mồi bắt bóng (nguyên văn - ưu tiên giữ những quả táo còn nằm trong giỏ). Nếu như ngoài những gì đã đề cập ở trên vẫn còn có phương án thứ 3, thì đó là vì ông ta còn tính đến lợi ích của bản thân... “Không một kẻ nào đưa xe tăng tới Nhà Trắng mà không nhằm bảo vệ hay tấn công. Điều đó hoàn toàn không cần thiết. Mà cũng không có mệnh lệnh như thế. “Trung thành với lời thề quân nhân”, P. X. Grachov lúc đầu đã tích cực tham dự các cuộc họp với Iazov, nhưng ngay sau đó lại gọi điện báo cáo với Eltxin. Họ quá hiểu nhau. Khi Boris Nikolaievich (Eltxin) được bầu vào nghị viện, ông ta đã từng ở Pskov, nơi P. X. Grachov đang làm Tư lệnh sư đoàn Bộ đội Đổ bộ đường không. Rõ ràng họ đã từng ngồi chung một bàn... Nếu B. N. Eltxin thắng lợi, P. X. Grachov là người đầu tiên tới giúp ông ta bao vây ổ kháng cự”.

Chúng tôi đã nêu lên những nguyên nhân hành động của các nhân vật đã tham gia trực tiếp hay gián tiếp vào ủy ban quốc gia về tình trạng khẩn cấp. Động cơ của viên Bí thư BCHTW ĐCS Liên Xô O. X. Senin thì lại khác: không tham gia vào cuộc bạo loạn dưới bất cứ hình thức nào, thậm chí còn tránh các thành viên của ủy ban quốc gia về tình trạng khẩn cấp càng xa càng tốt. O. X. Senin chỉ giữ duy nhất một cương vị bên đảng và ông ta không hề muốn làm tổn hại thanh danh của bản thân cũng như của BCHTW trong trường hợp thất bại có thể xảy ra. Tuy nhiên điều đó đã không cứu được đảng khỏi tan rã, không cứu được một trong những bí thư của đảng khỏi bị giam cầm. ý nguyện của O. X. Senin thậm chí còn lớn tới mức: “Ông ta đã cùng những đại diện của ủy ban quốc gia về tình trạng khẩn cấp bay tới Foros. Song ông ta không tới gặp Tổng thống mà gặp Tổng Bí thư. Những ngày tháng cuối cùng này O. X. Senin đã thực sự là nhân vật số 2 trong đảng. Thay cho Ivasko thường xuyên bệnh tật, ông ta là người điều khiển các phiên họp của Bộ Chính trị và Ban Bí thư...

Vào đêm 18 rạng sáng ngày 19 tháng 8 năm 1991, O. X. Senin đã gặp Kravchenko (Chủ nhiệm ủy ban quốc gia về phát thanh và truyền hình để trao cho người này nhiệm vụ công bố các văn bản của ủy ban quốc gia về tình trạng khẩn cấp. Vai trò của ông ta trong cuộc biến loạn rõ ràng đã thay đổi. Nhưng vào những ngày cuối cùng, ông ta lại đứng ngoài cuộc. Sự gần gũi cũng như thái độ xa lánh của ông ta đối với các thành viên của cuộc biến loạn, rõ ràng, không phải là ngẫu nhiên.

Đó là những nét tóm tắt về những nguyên nhân đã buộc các cầu thủ chủ chốt tham gia vào một âm mưu chính trị, tuy nhiên những chủ nhân thực sự của tình hình lại là những kẻ hoàn toàn khác. Chính họ mới là kẻ điều khiển những chính khách này như những quân cờ. Họ đã đồng thời chơi cả quân trắng lẫn quân đen. Chính vì vậy mà kết cục đã được biết từ trước. Giống như lời một nhân vật trong phim “Kẻ bép xép” do nghệ sĩ Andriano Selentano thủ vai, đã nói trong trường hợp như thế: “Đặt cửa vào “đen”, đặt cửa vào “đỏ” - rồi tất cả là “zero”!”.

Những con tốt chính trị trong ủy ban quốc gia về tình trạng khẩn cấp đã không thể cảm nhận thấy điều kỳ ảo nhất của toàn bộ cuộc chơi mà chính họ là những kẻ chủ động và là tác giả của kế hoạch này.

Toàn bộ 3 ngày của tháng 8 đó ở Matxcơva đã tạo nên một âm hưởng là cuộc chơi đã kết thúc trong thời gian ngắn nhất, toàn bộ đất nước và chế độ Xô Viết đã bị rơi vào vực thẳm. Kể từ đó người ta không cần phải sáng tạo thêm một đòn hủy diệt nào nữa. Từ mùa xuân năm 1991, không một ai và không một điều gì có thể cứu nổi Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết...
chuongxedap:

Bí ẩn cái chết của Pugo và Akhromeiev

Nói chung, phải công nhận rằng số phận đã không hậu đãi các quân nhân cao cấp Liên Xô. Nêu số phận đẫ không để họ bị trúng đạn trong các cuộc chiến, thì thật ngớ ngẩn lại túm lấy họ trong “thời bình”. Những người chỉ huy cao cấp như: Grigori Ivanovich Kotovxki1, Ian Fritxevich Fabritius2, Nikita Erastovich Berzarin3, Xergei Xemenovich Biriuzov4 đều bị chết trong những hoàn cảnh không thật rõ ràng. Đó là chúng tôi đã không dẫn ra “những bí ẩn” trong khoảng thời gian của những năm 1937 - 1956.
  

Pugo

Bộ trưởng Bộ Nội vụ Liên Xô, ủy viên Hội đồng Quân sự Quân khu Matxcơva, Thượng tướng Boris Karlovich Pugo trong tháng 8 năm 1991 đã bị thất sủng vì chính sự thật mà ông được biết. Một ngày trước khi qua đời, ông đã nói về M. X. Gorbachov đúng như sau: “Ông ta đã phản bội tất cả chúng ta! Thật đáng giận là ông ta đã mua đắt và bán rẻ tất cả đến như vậy!”.

Theo giả thuyết điều tra, chính ông bố vợ già nua, bán thân bất toại đã gỡ lấy khẩu súng từ tay kẻ tự vẫn và đặt lên bàn.

Con trai và cũng là người chứng kiến - Vadim Borixovich Pugo, - khẳng định: “Tôi không hề nghi ngờ rằng chính họ đã làm điều đó. Nhưng tôi tin rằng người ta đã buộc họ làm điều đó.

Bố tôi bay từ Krym đến Matxcơva vào chiều ngày 18 tháng 8. Ông nghị tại nhà an dưỡng “Iuznyi” nằm ngay bên “Foros”...

Bố tôi lập tức đi ngay theo điện của Kriuchkov. Tôi đã không gặp được ông từ ngày 21 tháng 8 khi ông đến chỗ ông ta để làm việc. Tôi đã hỏi ngay xem chuyện gì đã xảy ra. Ông nói:

- Ta về nhà. Hôm nay bố không có việc gì để làm ở đây cả.

Tại nhà, có vài cuộc điện thoại gọi cho ông. Còn tới đêm thì mọi liên lạc đã bị gián đoạn, chỉ còn lại duy nhất đường điện thoại nóng có khả năng chống được tác động của vũ khí hạt nhân. Từ sáng, các đường điện thoại thành phố đã ngừng hoạt động. Người ta đã không thể cắt được điện thoại nội bộ của bên cảnh sát. Chiếc điện thoại này đã có vài cuộc gọi tới trong buổi sáng. Các viên phó chỉ huy của bố tôi, trong đó có Erin, người sau đó vài ngày đã trở thành Bộ trưởng Bộ Nội vụ, và một vài người khác. Tôi không thể nói ai trong số đó đã nói gì để buộc bố tôi phải tự tử. Chỉ có Cục Kỹ thuật KGB nắm được nội dung các cuộc điện đàm đó, bởi vào giai đoạn đó họ luôn nghe trộm các cuộc trao đổi của ông...

Vì sao ngay từ đầu đã có những mối nghi ngờ về vụ tự tử này? Người ta tìm thấy bố tôi bị chết trên giường, còn khẩu súng lại nằm ở ngăn bàn nhỏ cách đó khá xa. Stepankov và nhóm điều tra của anh ta khi đó đã đưa ra nhiều giả thuyết khác nhau, song tất cả bọn họ đã nhìn thấy những điều không đúng với sự thật. Tôi cũng không thể tìm được lời giải thích. Mãi một năm sau này, một ông già 89 tuổi, khi đã vào nằm tại bệnh viện tâm thần, mới nói cho tôi về chuyện gì đã xảy ra. Sau khi nghe thấy tiếng súng, chính ông đã vào phòng: “Vô cùng hoảng sợ, tôi đã gỡ lấy khẩu súng từ trong tay Boris và để nó vào ngăn kéo”. Một bí ẩn sạch sẽ!

  
Akhromeiev

Nếu sự kiện tự sát của B. K. Pugo có cái gì đó giống như thật, thì trong trường hợp của viên cố vấn cho Tổng thống Liên Xô về quân sự, Nguyên soái Liên Xô X. F Akhromeiev có nhiều dấu hiệu trực tiếp của một vụ sát hại: “Vụ tự sát” của Nguyên soái Liên Xô X. F Akhromeiev lạ lùng tới mức phi lý - bị treo cổ ở tư thế ngồi trong lần cố gắng “tự tử” lần thứ hai. Điều này xảy ra sau khi Nguyên soái chuẩn bị xong bài phát biểu của mình trước Xô Viết Tối cao nhằm kêu gọi các đại biểu nỗ lực ngăn chặn sự tan rã của quốc gia”.

“Các con gái của ông nói rằng, sau những ngày đầu tiên, trạng thái trầm uất đã qua, bố tôi tỏ ra sảng khoái, ông muốn kêu gọi những người cộng sản cố gắng cứu Liên bang khỏi sự tan rã. Sáng ngày 24 tháng 8, khi ông rời nhà đến nhiệm sở, đứa cháu ngoại đòi ông cho chơi đu! Ông đã trả lời: “Khi ông đi làm về, ông cháu ta sẽ chơi đu”. Tôi không bao giờ tin rằng ông rời nhà để chết.

Ông đang chờ tôi gọi điện cho ông. - Tamara Vaxilievna Akhromeieva, vợ góa của nguyên soái nói. - Ông còn dặn các con gái gọi điện cho mình khi máy bay của tôi cất cánh. Chúng đã gọi cho ông lúc 9h 30 và nói rằng mẹ đã bay. Vậy mà chỉ sau đó 10 phút, theo giả thuyết chính thức, ông đã tự sát. Liệu có thể tin nổi điều đó không?

Tôi không thể tin rằng chính ông đã làm điều đó và bằng cách dã man như thế...”.

Khi khám xét phòng làm việc của ông, người ta đã phát hiện rằng nguyên soái đã kết liễu đời mình trong lần nỗ lực thứ hai. Lần thứ nhất, sợi dây vốn dùng để buộc giấy tờ đã bị đứt... Và ông đã phải dùng một phương tiện kém hiệu quả hơn - một sợi giây nhỏ hơn...
__________________________________
1. 1881 - 1925, Anh hùng Nội chiến, từ năm 1922 là ủy viên BCHTW Liên Xô. ND
2. 1877 - 1929, Anh hùng Nội chiến, từ năm 1927 là ủy viên ủy ban Kiểm tra Trung ương ĐCS Liên Xô, bị chết trong một tai nạn máy bay. ND
3. 1904 - 1945, Thượng tướng, An hùng Liên Xô, Tư lệnh quân quan thành phố Berlin. ND
4. 1904 -1964, Nguyên soái Liên Xô, Anh hùng Liên Xô, giai đoạn 1963 - 1964 là Tổng tham mưu trưởng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Liên Xô. ND
chuongxedap:

Bí ẩn cái chết của Kruchina và những người khác

Trong chương này, cuối cùng, chúng tôi sẽ đề cập sát hơn tới vấn đề vì sao người ta đã âm mưu và sáng tác ra toàn bộ trò “cải tổ” này. Đó là vì tiến. Rất nhiều tiền. những đồng tiền điên loạn. Đó là hàng tấn vàng và hàng cân kim cương. Vì chúng mà đã biết bao người phải từ giã cuộc sống.

“Vào hồi 5h 26, ngày 26 tháng 8, viên cảnh sát trực bảo vệ khu nhà ở ngõ Plotnikov nghe thấy tiếng động lạ. Một người đứng tuổi đã rơi từ tầng 5 xuống đất. Do “hấp tấp”, ông ta đã làm tung ô cửa sổ và ngã từ trên đó xuống. Thật sửng sốt khi biết được người đã “hấp tấp” đến vậy là Kruchina - Chánh Văn phòng BCHTW ĐCS Liên Xô, ủy viên BCHTW ĐCS Liên Xô, đại biểu nhân dân.

Từ thời Andropo cho đến những năm gần đây, ông ta đã từng là Chánh Văn phòng BCHTW ĐCS Liên Xô. Ông ta không phải là người biết nhiều, mà là biết tất cả mọi chuyện! Đặc biệt là về giai đoạn cuối cùng. Theo báo cáo đánh giá của L. Vexelovxki, một nhân viên KGB Liên Xô “Về những biện pháp bổ sung nhằm củng cố và sử dụng có hiệu quả tài sản của Đảng”: “Số tiền nộp vào quỹ đảng dưới dạng thu nhập và không được thể hiện trong các sổ sách tài chính, cần phải được sử dụng để mua những cổ phần vô danh, quỹ của những hãng lẻ, những xí nghiệp, ngân hàng, một mặt nhằm bảo đảm nguồn thu độc lập vời tình hình tiếp theo của Đảng, mặt khác các cổ phần đó có thể được bán đi để phân phối vốn trong các lĩnh vực khác nhằm mục đích từ bỏ trách nhiệm can dự của Đảng, nhưng vẫn duy trì được quyền kiểm soát...”.

“Vào đầu tháng 4 năm 1991, Bộ Nội vụ Liên Xô nhận một thông tin đáng chú ý rằng có một nhóm người, trong đó có những người rất có tiếng tăm, đang tìm kiếm những con đường an toàn để chuyển tiền của ĐCS Liên Xô ra nước ngoài. Theo nhiệm vụ được phân công, Viên chỉ huy Xemenikhin (tên họ của một số nhân vật đã được thay đổi), vốn biết khá nhiều về những công việc den tối của những kẻ đang nằm trong chính quyền, đã coi đó là một thông tin rất có giá trị. Để làm sáng tỏ các chi tiết của chiến dịch, Xemenikhin đã quyết định sử dụng cộng tác viên ở đơn vị của Oleg Koselov...

Liệu đến bao giờ chúng ta được biết trong quỹ đen của ĐCS Liên Xô có bao nhiêu tiền. Điều rõ ràng là quỹ đó không chỉ có đảng phí và lợi nhuận từ những hoạt động xuất bản. Liệu có ai dám nói rằng Bộ Chính trị suốt 70 năm qua đã biển thủ từ dự trữ vàng của đất nước? ĐCS Liên Xô đã giúp đỡ các đảng anh em và những chế độ độc tài ra sao? Bao nhiêu tài sản thu được sau cách mạng đã biến đi đâu?...

Trong năm 1991, tại 3 thành phố lớn của Nga đã xuất hiện gần 10 ngân hàng thương mại. Không một ai có thể nghi ngờ các ông chủ ngân hàng dân chủ có mối quan hệ với ĐCS Liên Xô . Vậy mà mối quan hệ đó là có thật. Tiền của ĐCS thông qua các xí nghiệp, các tổ chức đã như nước đổ vào chính các ngân hàng này...

Các ngân hàng “của đảng” đã hoạt động theo sơ đồ như sau: Một là, chúng tài trợ cho các quỹ, các hãng, các chiến dịch của những người được tin cậy. Các cơ cấu này lợi dụng mối quan hệ với những người lãnh đạo đã nhanh chóng đủ lông đủ cánh. Phần đông trong số đó cho đến nay vẫn còn thịnh vượng. Hai là, các ngân hàng này đầu tư linh hoạt vào những xí nghiệp nhỏ, các công ty con, mà trong đó thường có tới 2 - 3 người của đảng. Số tiền thu được chung mua ngoại tệ và chuyển ra nước ngoài... Sau một thời gian, các xí nghiệp nhỏ đó phá sản. Tiên không thu hồi lại được...

“Những gì ta biết được chỉ là phần nổi của tảng băng. Vào tháng 8, trước cuộc biến loạn không lâu, tôi đã nghỉ tới 10 ngày cùng với một người có rất nhiều tài liệu về “quỹ” bí mật. Nhà tài chính này đã được biết về một cuộc đảo chính sắp xảy ra và anh ta có vẻ rất căng thẳng. Đã có đêm anh ta uống đến say mèm. Chi qua vài ngày mà tóc anh ta đã bạc cả. Trong số tài liệu đó có tên các ngân hàng, số tài khoản, và điều chủ yếu là có danh tính của 8 người, các thành viên đã từng giám sát toàn bộ chiến dịch.

... Ngày 18 tháng 8, khi tình trạng khẩn cấp được ban bố trong cả nước, chính quyền đã thuộc vào ủy ban quốc gia về tình trạng khẩn cấp. Cả Xemenikhin và Koselov nghe như sét đánh ngang tai: người đứng đầu nhóm tài chính bí mật là người nhà của một thành viên trong ủy ban quốc gia về tình trạng khẩn cấp...”.

Nếu như có những nhân vật được che đậy dưới các tên giả, thì Kruchina, Pavlov (kẻ tiền nhiệm của ông ta) và Lesovolik (một cộng sự khác) đã bị phát giác. Tất cả những người này đã chết trong những người loạn lạc đó như những nhân chứng nguy hiểm: “Sát trước cuộc biến loạn, toàn bộ số tiền đó đã được bí mật chuyển ra nước ngoài.

Người ta cũng biết đến việc Vladimir Orlov - cựư Bộ trửng Tài chính Liên Xô - đã bí mật sang Thụy Sỹ. Ông ta đã bỏ qua mọi nguyên tắc của nghi thức ngoại giao để đến thăm nhiều ngân hàng nổi tiếng với tư cách là khách hàng ẩn danh (Inkognito)”.

Tác giả bài viết trên là phóng viên Mikhain Gurtovoi. Ông ta đã từng là Chủ tịch ủy ban tìm kiếm “vàng của đảng”...
Bí ẩn cái chết của những nhân viên mật vụ

Đến lúc này, tình trạng của các cơ quan an ninh như KGB và Bộ Nội vụ là không còn đủ sức bảo vệ đất nước nói chung và cho chính mình nói riêng. Chính xác hơn thì tình trạng bất lực này đã được bắt đầu từ trước đó.

Sĩ quan tình báo Molodoi. “...Chuyện xảy ra ở Medyni, cách Matxcơva 200 km. Bố mẹ tôi cùng với gia đình một người bạn là phi công lái máy bay thử nghiệm Vladimir Romanenko và vợ ông ta là Mila tới đó hái nấm. Lúc chiều xuống, họ cùng nhau ngồi bên đống lửa, vui vẻ trò chuyện. Bất chợt, bố tôi thấy khó thở. Sau khi nôn thốc ra thì ông bất tỉnh. Chú Volodia đã phải đưa bố tôi yới một trạm xá xã. Tại đó, bác sĩ trực chẩn đoán rằng ông bị một cơn đột quỵ và bị liệt nửa người bên phải. Đến ngày 9 tháng 10 năm 1970, ông đã mất trong tinhg trạng bị hôn mê. Điều đáng ngạc nhiên là vào ngày 13 tháng 10, hầu hết các báo nước ngoài đều thông báo về cái chết của một sĩ quan tình báo Liên Xô nổi tiếng, còn trong nước chúng ta chỉ có đăng một bản cáo phó trên báo “Sao đỏ” ra ngày 16 tháng 10. Rõ ràng là có nhiều người đã thuận tình như vậy...”

Sĩ quan tình báo Kavernev. “Vào đầu những năm 1980, có tới 3 tình báo viên Liên Xô đã chết trong những hoàn cảnh rất bí ẩn tại Mỹ, trong số đó có phóng viên truyền hình nổi tiếng Kavernev đã chết trong thời gian đi công tác ở Afghanistan. Cái chết của cả ba người đã xảy ra vì một nguyên nhân đơn giản là họ đã hoàn thành quá xuất sắc nhiệm vụ của mình khi họ báo cáo lên KGB những thông tin về số điệp viên có thể lực ở Liên Xô. Và phần thưởng dành cho họ là mệnh lệnh: Thủ tiêu!”

Orlov - điệp viên của tình báo Liên Xô. Thiếu ta KGB Liên Xô Orlov Mikhain Evgenievich (nguyên là Glen Michael Sowter - công dân Mỹ) đã qua đời ngày 22 tháng 6 năm 1989 ở tuổi 32.

Leonid Nikitenko - một cán bộ lãnh đạo cơ quan phản gián đã đột ngột qua đời vào năm 1991 trong thời gian lưu trú tại Braxin. KGB, do nghi ngờ ông ta bị giết, đã đề nghị CIA Mỹ điều tra vụ việc này. Thông qua các mối quan hệ trong Chính phủ Braxin, CIA đã phát hiện ra Nikitenko chết do bị nhồi máu cơ tim.

“Khi có dấu hiệu nghi ngờ về việc có ai đó đã hành động không đúng luật chơi, chúng tôi đã liên hệ với CIA và đã làm rõ những vấn đề này. - Sebarsin, cựu lãnh đạo tình báo KGB nói, - Người của chúng ta, Nikitenko, đã ra nước ngoài trong một thời gian ngắn và bị chết tại đó. Chúng tôi đã phải kiểm tra để khẳng định đó là chết do bệnh tật hay do có ai đó phạm luật chơi. Chúng tôi đã nhận được thông tin từ các đồng nghiệp Mỹ rằng họ không hề nhận thấy bất cứ một nghi vấn nào về việc chơi phạm luật và họ cũng bác bỏ mọi nghi ngờ về việc họ có liên quan đến cái chết này. Tôi tin như vậy và đã cảm ơn họ”.

Vì sao người ta đã không kiểm chứng thông tin từ phía Mỹ? Không hề nghi ngờ về độ tin cậy của những thông tin như vậy?

Phó chỉ huy thứ nhất của Tổng cục Tình báo Bộ tổng Tham mưu Liên bang Nga, Thiếu tướng Không quân Guxev. “Ngày 1 tháng 12 năm 1992, nhân viên lái xe của Guxev đã chờ ông và vợ ông tại cổng ra vào. Do hết thuốc lá, anh ta đã bỏ đi chừng 2 - 3 phút. Vào thời điểm đó, một thanh niên (theo biên bản ghi lại) người gốc Kavkaz, đã xuất hiện cạnh chiếc “Volga”. kẻ lạ mặt đã dùng chìa khóa riêng để mở cửa xe và xịt một chất gì đó lên vô lăng. Sau đó, hắn ta thận trọng đóng cửa xe và biến mất.

20 phút sau, chiếc “Volga” chở Guxev đã ra tới đường vành đai của Matxcơva. Tại km số 74, người lái xe đột ngột bất tỉnh, chiếc xe đã lao vào một chiếc “Ziguli” của hai người đi ngược lại. Cả Guxev và hai nạn nhân tình cờ đã bị chết”.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Hello Việt Nam