Sàn giao dịch mua bán trực tuyến MB24

MUA BÁN TRỰC TUYẾN HAY THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ HIỆN ĐANG LÀ XU THẾ PHÁT TRIỂN CHUNG CỦA CẢ THẾ GIỚI.TUY NHIÊN Ở VIỆT NAM HÌNH THỨC TRÊN CÒN KHÁ MỚI MẺ. Xin trân trọng giới thiệu tới Quý Bạn Sàn giao dịch thương mại điện tử mua bán trực tuyến MB24 . Hiện tại Tôi đang có 3 gian hàng mua bán trên sàn giao dịch này . Bạn có thể trực tiếp kinh doanh trên gian hàng của mình , hoặc bạn sẽ được mua hàng chất lượng tốt với giá rẻ của nhà sản xuất mà không phải trả chi phí cho bất cứ một khâu trung gian nào. TIẾT KIỆM CHI PHÍ CHO GIA ĐÌNH BẠN NHIỀU TRIỆU ĐỒNG.Bạn có thể liên hệ với Tôi để tham gia mua bán trực tuyến và tham gia Thương mại điện tử ngay nha : 0919.781.981

Thứ Bảy, 25 tháng 6, 2011

Chương I

chuongxedap:

CHƯƠNG I
LIÊN XÔ - MỸ. 1945-1953.


Những nguồn gốc của “chiến tranh lạnh” - 1

Cũng như lý do đối với Chiến tranh  thế giới II được hình thành khi Chiến tranh  thế giới I kết thúc, lý do đối với “cải tổ” là những sự kiện xảy ra cuối Chiến tranh  thế giới II.

Trong nội bộ giới cầm quyền Mỹ và guồng máy khát khao thống trị thế giới đã từng tồn tại những quan điểm hoàn toàn khác nhau về việc hợp tác chính trị - quân sự của Mỹ và Liên Xô trong cuộc đấu tranh chống Đức, cũng như về việc quan hệ với Liên Xô nói chung. Phe được coi là thân Tổng thống (F. D. Roosevelt) ủng hộ việc liên minh bền vững với Liên Xô trong thời gian chiến tranh và không hề có ý định rời bỏ liên minh này sau đó. Phe khác - được coi là chống Xô Viết - đã có ý kiến hoàn toàn đối lập. Thái độ khác biệt như thế được thể hiện thành một cuộc đấu tranh thực sự giữa hai phe. Cuộc đấu này đặc biệt trở nên gay gắt hơn khi Hồng quân bắt đầu giành được những thắng lợi trên các mặt trận, giải phóng toàn bộ lãnh thổ của mình và tiến vào chiến trường châu Âu. Khi đó tổng thống Mỹ và Thủ tướng Anh không chỉ buộc phải ký vào bản Hiệp ước Ialta (4-11/2/1945), mà còn phải thực thi các điều khoản trong đó trên thực tế.

Phe chống Xô Viết đã tiến hành thăm dò các quan chức Chính phủ về việc hủy bỏ những cam kết và xem xét lại đường lối đối ngoại sau chiến tranh. Ngay từ thánh 8 năm 1943, Cơ quan chiến lược Mỹ đã chuyển cho cấp lãnh đạo cao nhất đất nước xem xét Bị vong lục 121, trong đó đặt ra giả thiết về “phương hướng có thể của chiến lược và chính sách trong quan hệ với Đức và Nga. Trong điểm 3 của nó nêu: “cố gắng chuyển toàn bộ sức mạnh của nước Đức do phát xít và các tướng lĩnh đang điều hành chống lại Nga. Điều đó, rõ ràng, sẽ dẫn tới việc chính nước Đức hùng mạnh và hiếu chiến, nước đã từng tuyên chiến chống Nga và chống chúng ta (Mỹ) vào năm 1941, chiếm đóng Liên Xô“.

Dường như hành động chủ yếu của phe này là họ đã bắt đầu tìm kiếm cách tiếp xúc với Đức. Các cuộc đàm phán đã được tiến hành thông qua cầu nối: Trưởng đoàn phái bộ Mỹ tại Berlin là Allen Dalles - Chỉ huy Ban tham mưu của Himle là Tướng SS Karl Volf. Rõ ràng “vụ Volf - Dalles” là chiến dịch chống lại Tổng thống Roosevelt và đường lối của ông ta. Nó được bắt đầu khi ông ta còn sống và nhằm phá hoại việc thực thi Hiệp ước Ialta.

Phía Xô Viết được biết đến vụ này sau cuộc trao đổi thông tin giữa Bộ Dân ủy ngoại vụ Liên Xô và Bộ Ngoại giao Mỹ. Đây cũng là đối tượng trao đổi qua thư từ giữa I. V. Xtalin và F. D. Roosevelt. Tổng thống Mỹ đã tìm cách lảng tránh các câu hỏi của Xtalin bằng cách trì hoãn thời gian, đồng thời cố gắng nắm lại các đầu mối và các nhân vật quyền lực để tác động tới tình hình đang tuột khỏi tầm kiểm soát của mình.

Cho đến nay ta chỉ có thể phán đoán về những gì xảy ra giữa Roosevelt và những kẻ chống lại đường lối của ông ta, song rõ ràng là ông ta đã phải chịu áp lực vô cùng lớn từ phía đối thủ bởi đó là đòn nhắm vào uy tín của Tổng thống. Tình huống đặt ra là một nhân vật có quyền lực hợp hiến cao nhất nước không còn kiểm soát được hành động của những kẻ thuộc quyền xung quanh mình.

Mùa Xuân năm 1945, xung đột trong quan hệ ngoại giao đã có thể chuyển thành nguy cơ quân sự công khai. Vụ việc này có thể gây ra xung đột đặc biệt, cho dù là nghịch lý, đối với trục “Nga” - “Nga (không phải Xô Viết)”, chứ không phải đối với trục “Đức” - “Nga” hay trục “Mỹ + Anh” - “Nga”. Thời gian gầy đây người ta lại khơi dậy và thường xuyên đề cập tới hoàn cảnh cuối chiến tranh của những người Kazak đã từng chiến đấu bên phía Hítle trong Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại và bị bắt làm tù binh. Cũng cần nêu ra những toan tính sau: cả Mỹ, cả Anh đều không thể công khai tuyên chiến với Liên Xô. Phát lệnh chiến đấu cho các sĩ quan và binh sĩ Mỹ, Anh sau suốt 4 năm nỗ lực hợp tác cùng người Nga và tiến hành phản tuyên truyền trong một thời gian rất ngắn là một việc làm quá sức. Với người Đức cũng có vấn đề: quân đội đã suy kiệt bởi chiến tranh, mà điều chủ yếu là lòng cuồng tín đã rệu rã; người Đức sẵn sàng chiến đấu nhưng không thể vì quyền lợi của nước thứ ba, cho dù tiềm năng vẫn còn. Chỉ còn có thể buộc những kẻ phản bội, những kẻ tráo trở và những cựu bạch vệ chiến đấu bởi chúng không có gì để mất. Trong trường hợp đó có lực lượng khác can thiệp vào. Đặc biệt, yếu tố này có thể được khởi động nếu chú ý tới việc Liên Xô thực thi các hiệp ước trước đây và việc họ chuyển đại quân từ chiến trường châu Âu sang phía Đông để tiến hành chiến tranh với Nhật, Trong trường hợp đó rất cần tính đến cả việc I. V. Xtalin vào mùa hè năm 1945 sẽ buộc phải làm việc với những đối thủ chính trị mới là G. Truman và K. Attlee (Thủ tướng Anh thời kỳ 1945 - 1951. ND), chứ không phải với những đối tác cũ của ông ta là F. D. Roosevelt và W. Churchill (Thủ tướng Anh thời kỳ 1940 - 1945 và 1951 - 1955. ND). Có quá nhiều nguyên nhân gây nên những mâu thuẫn và bất đồng này: “... Sau chiến tranh, năm 1945, theo kế hoạch Marshall, tại vùng phía Tây nước Đức do Mỹ, Anh và Pháp chiếm đóng, “nền dân chủ thế giới” đã soạn thảo một kế hoạch tiến hành triệt sản bắt buộc đối với tất cả đàn ông ở độ tuổi quân dịch bị nghi ngờ đã tham gia chiến đấu. Mà vào cuối chiến tranh, những người ở độ tuổi quân dịch trong lực lượng dân quân (Folksturm) là từ 14 đến 60, nghĩa là tất cả nam giới người Đức ở độ tuổi sinh sản đều sẽ bị triệt sản !

Nếu tính rằng nước Đức lúc đó tràn ngập các đội quân chiếm đóng được tập hợp từ rất nhiều dân tộc và chủng tộc khác nhau: người Pháp gốc Angieri, người Anh ở thuộc địa A-rập, người Mỹ da mầu và gốc Do Thái..., thì có thể hiểu được ý đồ của họ - biến dân tộc Đức thành một chủng tộc hỗn tạp, từ đó trải qua vài thế hệ có thể sẽ tận diệt được hệ gen và đặc tính dân tộc đó mà không nhọc công nhiều.

Vào năm 1945, Xtalin đã đứng ra ngăn chặn hành động tội ác này của kế hoạch Marshall bằng lời cảnh cáo phương Tây - những người hôm qua còn là đồng minh của mình - rằng nếu họ bắt đầu tiến hành triệt sản, ông sẽ khởi động một cuộc chiến tranh chống lại họ. Tài liệu lưu trữ quốc gia Anh vừa được công bố mới đây cũng xác nhận có một âm mưu quân sự trực tiếp. Vào tháng 4 năm 1945, một chiến dịch có tên gọi rất mỹ miều “Điều không tưởng” đã được tiến hành hoạch định nhằm gây ra một cuộc chiến tranh với Nga ở châu Âu (Trong trường hợp này không thể bỏ qua vụ đụng độ giữa giữa quân đội của Anh và Xô Viết đang chiếm đóng ở Iran). Đó là câu trả lời khẳng định về việc giới lãnh đạo Xô Viết đã biết tới những kế hoạch theo đuổi chiến tranh của phía Anh.

Vì vậy, không có gì ngạc nhiên với việc Liên Xô và một bộ phận Mỹ “chống Roosevelt” cuối cùng đã thực sự đối đầu nhau.
chuongxedap:

Bí ẩn cái chết của Roosevelt

Bản thân F. D. Roosevelt từ nhỏ vốn đã ốm yếu, thiếu tinh thần và thể chất để làm một chính khách. Chỉ nhờ cá tính mạnh mẽ và kiên quyết mà ông đã đắc cử tổng thống trong một đất nước hết sức phức tạp như Mỹ, thậm chí còn lập ra một kỷ lục chưa từng có - 4 nhiệm kỳ!!! Hơn nữa, lần tranh cử đầu tiên khó khăn nhất đã diễn ra trong hoàn cảnh kinh tế và xã hội đang khủng hoảng. Rồi cả chiến tranh cũng chẳng buông tha ông, cho dù nó không phải là nguyên nhân làm ông đột tử.

F. D. Roosevelt, theo chúng tôi, đã phải chết, nhưng không chỉ là do việc ông ta đã cắt đứt cuộc đàm phán tại Berne. Còn một nguyên nhân để phế bỏ ông là: ở cương vị Tổng thống Mỹ, lẽ ra ông phải là người ủng hộ việc đối đầu với Liên Xô, thì ông ta lại không sử dụng những kẻ theo đuổi đường lối đó. Còn đối với những kẻ quay ngoắt 1800, chúng ta không rõ là có cần phải gạt W. Churchill ra khỏi cương vị Thủ tướng Anh hay không, song có một sự kiện cho thấy vào mùa hè năm 1945 trên vũ đài quốc tế đã xuất hiện hai đối thủ mới - Tổng thống Mỹ G. Truman và Thủ tướng Anh K. Attlee.

F. D. Roosevelt đột ngột qua đời. Ngày 12 tháng 4 năm 1945, ông ta đang nghỉ ở Warm-Springs, Một ngày xuân tràn ngập ánh mặt trời và không có một điều gì báo trước thảm họa. Tổng thống Mỹ ngồi làm mẫu vẽ cho họa sĩ Elizabet Sumatova, tâm trạng sảng khoái, nói chuyện vui vẻ. Bất ngờ sắc mặt ông nhợt nhạt - F. D. Roosevelt bột phát cơn đau đầu. Hai giờ sau ông qua đời.


Những nguồn gốc của “chiến tranh lạnh” - 2

Cái chết của F. D. Roosevelt đã cởi trói cho những kẻ từng ngấm ngầm chống lại đường lối của ông nói chung và khuynh hướng xích gần lại với Liên Xô nói riêng. Nó là điều kiện tạo nên bước ngoặt căn bản mà từ đó bộ máy quốc gia Mỹ đã phải thay đổi hướng chuyển động. Nguy cơ một cuộc đối đầu giữa Liên Xô và Mỹ xuất hiện. Phe hiếu chiến (đặc biệt là Hội đồng Quan hệ quốc tế - SMO) trong giới lãnh đạo Mỹ đã tung ra đủ trò lừa dối trơ tráo. Ngay tại SMO, với sự có mặt của G. Truman, G. Morgeney, B. Barukha, A. Dalles đã nêu rõ phương châm của mình: “Chiến tranh sẽ kết thúc, mọi xáo trộn sẽ được ổn định. Và chúng ta sẽ bỏ ra tất cả những gì chúng ta đang có - vàng bạc, mọi vật lực để gia công và thuần hóa con người.

Bộ não của con người, nhận thức của mọi người đều có khả năng thay đổi. Sau khi gây ra rối loạn nơi đó, chúng ta sẽ bí mật thay thế các giá trị của họ bằng những giá trị giả và chúng ta sẽ buộc họ tin vào những giá trị giả đó. Bằng cách nào? Chúng ta sẽ tìm ra được những người cùng tư duy với mình, những đồng minh của mình ngay trong nước Nga.

Thảm họa diệt vong trên quy mô rộng của cả dân tộc bất khuất nhất, sự hủy diệt hoàn toàn, không thể đảo ngược ý thức của họ sẽ lần lượt xảy ra. Trong văn học và nghệ thuật, chúng ta sẽ làm cho bản chất xã hội của họ bị nhiễm độc. Chúng ta sẽ loại bỏ các họa sĩ, hủy diệt hoàn toàn niềm đam mê nghiên cứu, sáng tạo. Văn học, nhà hát, điện ảnh - tất cả sẽ chỉ mô tả và ghi nhận những tình cảm đê tiện nhất của con người. Dù sao chúng ta cũng giữ lại và nuôi dưỡng những kẻ được gọi là họa sĩ khi chúng biết gieo rắc và nhồi sọ vào ý thức mọi người sự sùng bái tình dục, bạo lực, thói bạo dâm, phản trắc - tóm lại, tất cả những gì vô đạo. Trong lĩnh vực điều hành quốc gia, chúng ta sẽ tạo ra sự rối loạn, trì trệ...

Chúng ta sẽ thầm lặng, nhưng tích cực và dần dần tạo điều kiện cho thói độc đoán của các quan chức, những kẻ ưa hối lộ, vô nguyên tắc. Thói quan liêu và giấy tờ sẽ được nâng lên thành phẩm hạnh. Thái độ danh dự và lương thiện sẽ bị chế giễu và không được ai cần đến, bị thành tàn tích của quá khứ. Thói đểu cáng và đê tiện, giả dối và lừa đảo, say sưa và nghiện ngập, nỗi sợ hãi lẫn nhau và thái độ vô liêm sỉ, phản bội, chủ nghĩa dân tộc và sự thù địch giữa các dân tộc, trước hết là sự thù địch và lòng căm thù đối với dân tộc Nga - tất cả những cái đó sẽ sẽ được chúng ta tôn tạo lặng lẽ và khéo léo, tất cả những cái đó sẽ nở thành hoa độc... Và chỉ có một số ít, rất ít người sẽ đoán được và hiểu được điều gì đang diễn ra. Nhưng những người đó sẽ được chúng ta đẩy vào tình thế bất lực, chúng ta biến họ thành kẻ bị mọi người chê cười, chúng ta tìm cách vu oan cho họ và tuyên bố đó là thứ rác rưởi của xã hội.

Chúng ta sẽ đào bật các cội rễ tinh thần của chủ nghĩa bônxêvich, làm tầm thường hóa và hủy diệt những nền móng của đạo đức. Bằng cách như thế chúng ta sẽ tha hóa thế hệ này sang thế hệ khác, làm thui chột thái độ cuồng tín với chủ nghĩa Lênin. Chúng ta sẽ nắm lấy mọi người ngay từ khi còn trẻ thơ, niên thiếu, chúng ta sẽ hy vọng chủ yếu vào lớp thanh niên, chúng ta sẽ làm cho nó tha hóa, phân hóa, đồi trụy. Chúng ta sẽ biến chúng thành kẻ trơ trẽn, đểu giả, thành những kẻ theo chủ nghĩa thế giới (cosmopolit). Chúng ta sẽ làm như thế đó” (Đề cương báo cáo của A. Dalles tại phiên họp SMO mở rộng)1

I. V. Xtalin đã được báo cáo ngay lập tức về bài phát biểu này. Trưởng ban Thư ký L. P. Beria là B. A. Liudovich sau này nhớ lại rằng Xtalin đã phản ứng rất quyết liệt đối với những lời này. Xuất phát từ việc Ban lãnh đạo Xô Viết cao nhất đã có được thông tin tin cậy về cuộc đàm phán ở Berne, bài phát biểu này tại SMO, cũng như đã đồng thời được báo cáo về vụ nổ quả bom nguyên tử đầu tiên của Mỹ, thì có thể đưa ra một giả thiết tương đối táo bạo rằng trong giới lãnh đạo chóp bu Mỹ có thông tin viên của I. V. Xtalin. Hiện đã có những bằng chứng, tuy chưa phải là tin cậy nhất, về việc trong số điệp viên có cả phu nhân Tổng thống Eleonor Roosevelt và (hoặc là) thư ký riêng của Roosevelt là Loklin Karri. Bà ta hay ông ta (hoặc cả hai?) đã làm chuyển sự chú ý của I. V. Xtalin sang Mỹ như một hướng ưu tiên. Trong mọi trường hợp, như trong những lời phát biểu của mình tại phiên họp của ủy ban cải tổ hoạt động tình báo và phản gián, trong khi thảo luận dự thảo Nghị quyết “về việc điều hành hoạt động tình báo của ủy ban An ninh quốc gia Liên Xô“ (tháng 12 năm 1952) của BCHTW ĐCS Liên Xô, I. V. Xtalin luôn chỉ đích danh Mỹ là kẻ thù chủ yếu. Vào khoảng 2 tháng trước khi ông qua đời, ông chỉ đạo: “Trong tình báo, không bao giờ tấn công trực diện, Tình báo phải hoạt động vu hồi. Nếu không sẽ thất bại, mà thất bại nặng nề. Tấn công trực diện - đó là sách lược thiển cận.

Phải tuyển lựa người nước ngoài sao cho không làm tổn thương lòng yêu nước của họ. Không được tuyển người nước ngoài chống lại Tổ quốc của họ. Nếu điệp viên được tuyển chọn không có lòng yêu nước - đó là điệp viên không đáng tin cậy.

Đặt ra một khuôn mẫu cho tình báo. Luôn thay đổi sách lược, phương thức. Luôn thích ứng với tình hình thế giới. Tận dụng tình hình thế giới. Tiến hành tấn công cơ động, sáng suốt. Tận dụng tất cả những gì thượng đế trao cho chúng ta.

Điều chủ yếu nhất là trong tình báo phải học được cách nhận ra sai lầm của mình. Người ban đầu nhận ra các sai lầm và thất bại của mình thì sau đó sẽ sửa chữa được.

Nắm lấy chỗ yếu, chỗ kém được bảo vệ.

Cần chấn chỉnh ngành tình báo trước hết từ việc loại trừ được mọi cuộc tấn công.

Mỹ - kẻ thù chủ yếu của chúng ta. Nhưng cần tập trung chú ý không chỉ riêng vào Mỹ. Trước hết, nên thiết lập các văn phòng công khai ở các quốc gia liền kề. Căn cứ đầu tiên, nơi cần có người của mình - Tây Đức.

Không thể ngây thơ về chính trị, nhưng đặc biệt là không thể ngây thơ trong tình báo.

Không được trao cho điệp viên những đặc vụ mà anh ta chưa được đào tạo, hoặc trái ngược với đạo đức của người ấy. Trong tình báo có những điệp viên có trình độ văn hóa rất cao - các giáo sư (trong thời kỳ bí mật, ta đã cử một người sang Pháp để phân tích quan điểm của các tổ chức mensevich, một mình người ấy đã làm việc hơn cả chục người khác).

Tình báo, với chúng ta, là sự nghiệp thiêng liêng, cao cả.

Cần tạo được uy tín. Trong tình báo cần có tới hàng trăm người bạn (nhiều hơn điệp viên), những người sẵn sàng thực hiện bất cứ nhiệm vụ nào của chúng ta. Những người cộng sản có cái nhìn méo mó về tình báo, về công việc của Chêka (ủy ban đặc biệt), sợ bị dây bẩn, nên nhúng đầu mình xuống giếng...”.
_________________________________________
1. Những năm gần đây, một số nhà nghiên cứu tỏ ra nghi ngờ tính xác thực của văn bản này là của A. Dalles, tuy nhiên, đây là văn bản kinh điển, nếu không đúng về ngôn từ thì về mặt tinh thần rất nhiều điểm phù hợp với quan điểm thực tiễn, nên tôi thấy cần dẫn nó ra đây như một minh họa rõ ràng cho quá trình phá hoại Liên Xô đã diễn ra.
chuongxedap:

Sự điều hành ở Liên Xô. 1945-1953.

Để khắc họa I. V. Xtalin như một nhà lãnh đạo và không bó hẹp mình vào khuôn khổ thời gian sau chiến tranh, cần phải nhận thấy ông có một văn hóa điều hành vô cùng cao, cũng như khả năng nắm bắt thông tin về các vấn đề trong đời sống kinh tế và xã hội. Đấy là nhận xét của những người cùng thời với ông, những người có điều kiện quan sát ông một cách trực tiếp và đã ghi lại những bằng chứng của mình trong các hồi ký. Điều này cũng được các nhà nghiên cứu sau này khẳng định. Thậm chí những kẻ thù của ông cũng biết tới những năng lực xuất chúng của ông và nhắn lại điều đó cho những kẻ kế tục họ. Không một ai có thể phủ nhận ông về tài năng, năng lực làm việc, biết cách chiến thắng và, nếu cần thiết, cũng “biết tấn công”.

Khi đó thái độ của ngoại bang đối với I. V. Xtalin và nhân dân Xô Viết rất hiếu chiến. Không phải ngẫu nhiên những người được thấy diện mạo của Xtalin lúc an táng đã nhận xét rằng đó là khuôn mặt của người mệt mỏi vì những cuộc đấu tranh liên tục. Toàn bộ khoảng thời gian I. V. Xtalin lãnh đạo Liên Xô vô cùng phức tạp và đầy biến động. Xtalin không mấy khi được thảnh thơi: thời kỳ đầu là bè lũ Trốtxkit; sau đó là những năm tập thể hóa. Trong một lần tâm sự với W. Churchill, ông đã không do dự gọi đó là những năm khó khăn nhất trong cuộc đời chính trị của mình; công nghiệp hóa diễn ra vô cùng trắc trở; thậm chí cuộc thanh lọc những năm 1937 - 1938 cũng trắc trở tới mức suýt cuốn trôi cả ông vào dòng xoáy của nó. Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại lại là một đề tài đặc biệt. Nói tóm lại, người ta đã không để I. V. Xtalin điều hành đất nước trong yên ổn.

Khi xem xét vấn đề này chúng ta không thể đặt ra cho mình nhiệm vụ làm rõ mọi vấn đề liên quan tới việc điều hành đất nước dưới thời I. V. Xtalin giai đoạn cuối. Chúng ta chỉ nhận thấy những nét đặc sắc trong việc I. V. Xtalin và ban lãnh đạo của ông đã hoàn thành xuất sắc những trách nhiệm của mình. Tất nhiên, I. V. Xtalin cũng đã có những sai lầm, song điều cơ bản là cính ông đã rút ra từ đó được những bài học, kinh nghiệm để đem lại lợi ích cho đất nước, giành thất bại lại cho kẻ thù.

Điều bí ẩn của I. V. Xtalin như một người lãnh tụ không chỉ là ở tính cách dũng cảm của ông, cũng không phải ở cách ông đã xử sự như một lãnh tụ của nhân dân, mà ở chỗ ông là một thủ lĩnh, tuy chưa có học vị cao nhất và chưa được học hành một cách có hệ thống, song, về nhiều phương diện, bằng những năng lực trí tuệ của mình, ông luôn hơn hẳn nhiều vị giáo sư cao đạo và những chính khách phương Tây lão luyện.

Về mặt hình thức, bắt đầu từ cuối những năm 1930 I. V. Xtalin không còn một trọng trách nào nữa, bởi quyền lực đã thuộc về ông trên mọi phương diện. Nhiều người đã không thể hình dung một cách đầy đủ về vấn đề này nên đã coi sự thật đó là không thể chấp nhận và có những kết luận không đúng. Nhưng thật ra I. V. Xtalin vẫn là một con người như trước - nghiêm khắc với bản thân và với mọi người. Bằng chứng của một người đã từng nghiên cứu I. V. Xtalin thể hiện: “Nhân việc có người chất vấn tại hội nghị toàn thể, đề cập tới trách nhiệm của mình, Xtalin nói:

- Nếu tôi được giao việc đó, có nghĩa là tôi sẽ làm việc đó. Chứ không phải việc đó chỉ dành riêng cho tôi. Tôi không được giáo dục như thế...

Lời sau cùng ông nói rất gay gắt”.

Tất cả những gì mà bây giờ ngành khoa học lãnh đạo của chúng ta coi như mới, thì I. V. Xtalin đã áp dụng chúng vào thực tiễn trước đó. Nhiều nhân chứng và những người nghiên cứu nhận thấy ở I. V. Xtalin: kiến thức tâm lý lãnh đạo; thấu hiểu tính thiết yếu của đại diện toàn quyền; năng lực thu nhận kiến thức và khả năng đặc biệt lường trước sự việc...

Tổng công trình sư hàng không A. X. Iakovlev, trong hồi ký “Mục đích cuộc sống. Những ghi chép của kiến trúc sư hàng không” đã viết: “Vào những tháng đầu tiên của chiến tranh chúng tôi luôn bị ám ảnh bởi những thất bại, các đơn vị quân đội ta phải rút lui, mọi người có tâm trạng nặng nề. I. V. Xtalin chưa lúc nào tỏ ra mình căng thẳng. Tôi không bao giờ nhận thấy ông bối rối, ngược lại, ông luôn khoáng đạt, cư xử khoan dung với mọi người. Rõ ràng, Xtalin hiểu rằng vào thời điểm đó cần phải nâng đỡ, khoan dung với mọi người”. Cũng trong hồi ký này, Iakovlev công nhận rằng I. V. Xtalin rất am hiểu về hàng không - khi đó là một lĩnh vực phức tạp nhất của khoa học kỹ thuật.

Còn N. M. Anhixin, trong hồi ký “Về chính trị và các chính khách”, viết: “Mùa thu năm 1946, từ Xôchi, Xtalin gọi điện cho Thư ký mới của Ban Chấp hành Trung ương Patolichev: “Anh hãy viết sắc lệnh của Ban Bí thư Ban Chấp hành Trung ương. Điều thứ nhất: “Bổ nhiệm M. X. Patolichev phụ trách việc tích trữ lúa mì năm 1946”. Anh viết xong chưa? Trong điều hai, anh hãy viết thêm tất cả những gì anh cần để tiến hành có hiệu quả việc tích trữ lúa mì”.

Đến bây giờ chúng ta mới nhận ra năng lực của I. V. Xtalin: tác động một lực nhỏ vào cả hệ thống phức tạp sao cho có thể thu được những kết quả to lớn. Điều đó nghĩa là ông có tài năng lãnh đạo kiệt xuất. Iu. P. Vlaxov viết: “Những quyết định Xtalin đưa ra, thường có vẻ không lớn lao và khó hiểu.., rồi đến khi diễn ra trên toàn thế giới, thì diện mạo của các sự kiện bỗng có được tầm thế giới sâu sắc”. Còn G. Xmirnov viết: “Trong 30 năm trên cương vị đứng đầu quốc gia đã có hàng nghìn con người qua tay Xtalin, những người mà ông phải nhanh chóng tìm hiểu và đánh giá cho đúng. Sự cấp thiết này đã tạo ra cho ông năng lực nhanh chóng đánh giá và đưa ra ý kiến. Đó là những đánh giá tuyệt vời bởi tính cô đọng, sắc sảo của chúng”.

I. V. Xtalin chỉ phê phán những thiếu sót khi điều đó là cần thiết: “Tôi nói đến loại người ba hoa là tôi nói những người ba hoa trung thực (cười), những người trung thực, trung thành với chính quyền Xô Viết, nhưng không có năng lực lãnh đạo, không có năng lực tổ chức một cái gì đó. Năm ngoái tôi có nói chuyện với một đồng chí, một đồng chí rất đáng kính, nhưng không sửa được tính ba hoa, có khả năng ba hoa bất cứ chuyện gì. Chuyện thế này.

Tôi: Việc gieo trồng ở chỗ đồng chí ra sao?

Anh ta: Gieo trồng ư, thưa đồng chí Xtalin? Chúng tôi đã huy động hết. (Cười)

Tôi: Vậy là sao?

Anh ta: Chúng tôi đã tuyên bố dứt khoát. (Cười)

Tôi: Còn sau đó ra sao?

Anh ta: Chỗ chúng tôi có chuyển biến, thưa đồng chí Xtalin, sắp có chuyển biến. (Cười)

Tôi: Chỉ thế thôi sao?

Anh ta: Mọi người đã có chuyển động. (Cười)

Tôi: Rốt cuộc, việc gieo trồng ở chỗ đồng chí ra sao?

Anh ta: Việc gieo trồng của chúng tôi hiện chưa ra sao, thưa đồng chí Xtalin. (Mọi người cười)

Khi gỡ bỏ cương vị của những người ba hoa như thế, không để họ tham gia công việc nữa, thì họ vung tay và băn khoăn: “Sao họ lại gạt bỏ chúng ta? Chẳng phải chúng ta đã làm tất cả những cần thiết vì công việc, chẳng phải chúng ta đã triệu tập hội nghị những người tiên tiến, chẳng phải chúng ta đã tuyên truyền các khẩu hiệu của Đảng và Chính phủ tại hội nghị những người tiên tiến, chẳng phải chúng ta đã bầu thành viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương vào đoàn chủ tịch danh dự (Mọi người cười), chẳng phải chúng ta đã gửi lời chúc đồng chí Xtalin sao, vậy thì còn đòi hỏi chúng tôi cái gì nữa?” (Mọi người cười)

Nhưng đôi khi vấn đề không chỉ là lời nói nữa - trong giai đoạn khốc liệt - sau “mọi người cười” là những giọt nước mắt.

Một trong những thời điểm điều hành khó khăn nhất là có sự thâm nhập của những phần tử lạc loài vào hệ thống và việc rò rỉ thông tin. Dưới thời Xtalin liệu có xảy ra việc xâm nhập của hệ tư tưởng xa lạ vào trong hệ thống của chúng ta, như nó vẫn thường xuyên xảy ra đối với bất kỳ hệ thống xã hội nào? Đúng là có, song chỉ xảy ra ở mức tối thiểu. Nó được đồng nhất một cách tinh vi và tiến hành chặt chẽ trong khuôn khổ của nó, trung tâm điều hành thông tin luôn điều chỉnh từng bước cho dù là nhỏ nhất một cách bí mật, thầm lặng. Sử dụng hệ thống hoạt động hoàn hảo như vậy phục vụ cho lợi ích của mình, về mặt nguyên tắc, là không thể. Vì vậy, và dưới ánh sánh của những sự kiện sau đây, có thể dễ dàng nhận thấy - và có được một kết luận chiến lược là: để hoàn thành âm mưu phá hoại đế chế Xô Viết cần phải khắc phục thành tố chủ yếu còn thiếu trong cấu trúc.
chuongxedap:

Bí ẩn cái chết của Xtalin

Vào thời điểm hiện nay, có một số lượng khá lớn các ấn phẩm viết về sự kiện vô cùng đau buồn này đối với tất cả chúng ta. Chúng tôi xin tập trung vào tiến trình sự kiện.

Vào tháng 5 năm 1952, sau buổi làm việc với ủy ban thanh tra, cùng đi, ngoài các chuyên gia, có ủy viên Bộ Chính trị BCHTW ĐCS (Bônxevich), Phó chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Liên Xô L. P. Beria, ủy viên Bộ Chính trị BCHTW ĐCS (Bônxevich) N. A. Buganin và Thư ký của I. V. Xtalin là A. N. Poxkrebysev. Tất cả nhất trí cách chức Chỉ huy trưởng đội bảo vệ I. V. Xtalin là tướng Nicolai Xidorovich Vlaxik. N. C. Vlaxik giữ cương vị này từ năm 1935, còn trước đó - trong thời gian nội chiến - là lái xe riêng cho I. V. Xtalin. Trong vụ việc này cần lưu ý là quá trình công tác của Vlaxik có những lần bị ngắt quãng - anh ta có lúc là chỉ huy phó đội bảo vệ, có lúc được điều chuyển sang điều hành công tác bảo vệ các ủy viên Bộ Chính trị. Là chỉ huy trưởng Cục bảo vệ số 2 từ 15 tháng 4 đến cuối năm 1946. Trong các ghi chép còn được lưu lại, Vlaxik đã kết nối hai sự kiện - việc mình bị cách chức với cái chết của I. V. Xtalin - vào làm một: “Ba tháng sau khi tôi bị bắt giam, I. V. Xtalin qua đời...”. F. I. Chuev đưa ra bằng chứng của con gái Vlaxik, người chuyển lời của bố mình đã nói vào khoảng thời gian giữa khi Vlaxik bị bắt giam và cái chết của Xtalin: “Ông ấy còn được sống rất ít”. Sau đó A. N. Pokrebysev đã bị cách chức, rồi đến thiếu tướng X. F. Kuzminchev - người đã phục vụ trong đội bảo vệ Xtalin. Vào tháng 1 năm 1953, có 5 người trong số thân cận của Xtalin bị bắt giam vì tội làm gián điệp”.

Thiếu những trợ thủ thân cận như A. N. Poxkrebysev và N. X. Vlaxik, I. V. Xtalin bị rơi vào tình trạng bị cách ly nguy hiểm, chính xác hơn, có thể nói rằng trong trường hợp như thế người ta đã lợi dụng chính Xtalin để ông tự cách ly. Cả người bí thư riêng không thể thay thế được, cả người chỉ huy đội bảo vệ riêng vào thời Xtalin còn sống đều là những nhân vật đầy quyền uy. Đối với họ, việc được đưa lên cao hay bị hạ xuống thấp đều là mối nguy hiểm chết người. Họ gắn chặt với I. V. Xtalin không chỉ thuần túy là mối quan hệ con người. Thiếu Xtalin, họ bị biến thành những nhân chứng nguy hiểm, có thể gây liên lụy tới những người xung quanh họ. Vì vậy, họ có thể sẵn sàng chấp nhận cái chết cho mình, chỉ mong sao chủ nhân còn sống.

Bản thân I. V. Xtalin, hoặc do sự xúi bẩy của “tổ chức” đã cắt bỏ cả hai người bạn ra khỏi “móng vuốt” của mình - đó là V. M. Molotov và A. I. Mikoian. Phát biểu tại phiên họp toàn thể Ban Chấp hành Trung ương Đảng, ông đã nói những lời sau:

“Không thể không đề cập tới tư cách sai lầm của một số nhà hoạt động chính trị lỗi lạc, nếu chúng ta nói về sự thống nhất trong sự nghiệp của chúng ta. Tôi nói tới các đồng chí Molotov và Mikoian.

Molotov là người đã phản bội sự nghiệp của chúng ta. Nếu kêu gọi, tôi không nghi ngờ, anh ấy sẽ không do dự hiến dâng cuộc đời mình cho Đảng. Nhưng không thể bỏ qua những hành động không xứng đáng của anh ấy. Đồng chí Molotov, Bộ trưởng ngoại giao của chúng ta đã đồng ý cho đại sứ Anh xuất bản những tờ báo và tạp chí tư sản tại đất nước ta. Tại sao? Căn cứ vào đâu mà đòi được xuất bản các báo chí tư sản tại đất nước của chúng ta. Tại sao? Căn cứ vào đâu mà lại đồng ý? Chẳng lẽ không biết tư sản là kẻ thù của giai cấp chúng ta và phát triển ấn phẩm tư sản trong những con người Xô Viết - điều này, không chỉ có hại, mà cũng chẳng được lợi gì. Bước sai lầm này, nếu bỏ qua, sẽ có hại, tác động tiêu cực tới trí tuệ và thế giới quan của những con người Xô Viết, sẽ dẫn tới sự suy yếu của chúng ta, của hệ tư tưởng cộng sản chủ nghĩa và tăng cường hệ tư tưởng tư sản. Đó là sai lầm chính trị đầu tiên của đồng chí Molotov.

Còn lời đề nghị của đồng chí Molotov về việc chuyển giao Krym cho người Do Thái thì sao? Đây là sai lầm thậm tệ của đồng chí Molotov. Tại sao anh ấy lại đề nghị như vậy? Làm sao có thể chấp nhận được? Căn cứ vào đâu đồng chí Molotov nêu ra đề nghị như thế? Chúng ta có khu tự trị Do Thái. Như vậy chưa đủ sao? Cứ để nước cộng hòa này phát triển. Còn đồng chí Molotov không cần phải làm luật sự bào chữa cho những tham vọng Do Thái trái phép đối với Krym Xô Viết của chúng ta. Đó là sai lầm chính trị thứ hai của đồng chí Molotov. Đồng chí Molotov đã xử sự sai lầm không phù hợp với ủy viên Bộ Chính trị. Và chúng ta kiên quyết bác bỏ những đề nghị thiếu suy nghĩ của đồng chí ấy.

Đồng chí Molotov tôn trọng vợ mình tới mức chúng tôi chưa kịp thông qua quyết định của Bộ Chính trị về vấn đề chính trị quan trọng nào đó, thì đồng chí Zemchuzina đã biết rồi. Rõ ràng có một sợi chỉ vô hình nối Bộ Chính trị với vợ đồng chí Molotov và bạn bè của chị ấy. Mà những người bạn xung quanh chị ấy không thể tin cậy được. Rõ ràng là Bộ Chính trị không bỏ qua hành vi này.

Bây giờ về đồng chí Mikoian...”.

Sau bài phát biểu đó, người phát biểu không sống được bao lâu. Tôi không có ý định ám chỉ V. M. Molotov và A. I. Mikoian, nhưng bất kỳ giả thiết nào về việc này đều là có thể.

Không nên loại trừ “dấu vết ngoại bang” bởi có những căn cứ sau: “Năm 1945, trong một pháo đài ở Nhiznhi Xilezi (Đức) Hồng quân Liên Xô đã thu giữ được hàng chục toa tầu chứa tài liệu lưu trữ tuyệt mật của Tây Âu, mà chủ yếu là những tài liệu lưu trữ của các tổ chức mật vụ Đức, Pháp, Bỉ và các nước khác.

Các tài liệu thu thập được đã cho phép hiểu sâu cơ chế của quyền lực bí mật và hoạt động lật đổ phá hoại của “những người thợ đập đá tự do” trên toàn thế giới. Chúng đã cung cấp thông tin hoàn chỉnh về công nghệ “công tác thầm lặng” của hậu trường thế giới. (Tiếc rằng, hiện nay việc nghiên cứu những tài liệu lưu trữ này rất khó khăn do chúng đã được trao trả về châu Âu, tuy nhiên có một số vẫn còn bản sao)

Xtalin và ban lãnh đạo chính trị của Liên Xô lập tức hiểu ra giá trị to lớn của những tài liệu này để củng cố chế độ của mình.

Trong những năm đầu nắm giữ các tài liệu này, trước khi Xtalin qua đời, người ta đã nghiên cứu chúng một cách nghiêm túc, thậm chí cho dịch hàng loạt tư liệu để theo dõi công nghệ quyền lực bí mật của phương Tây. Nhiều tài liệu thu giữ được đã cho phép Xtalin tác động vào một bộ phận nhất định của giới cầm quyền phương Tây và nhằm củng cố vị trí của mình trên chính trường thế giới. Việc sử dụng thông tin này, hay nói theo ngôn ngữ của ngành tình báo hiện đại, biến nó thành hiện thực có nghĩa là lớp thượng lưu cầm quyền của phương Tây sẽ bị sát hại về chính trị.

Vậy liệu có việc lạm dụng những sự kiện trong lịch sử. Dường như cũng có một hoặc hai trường hợp. Động cơ sát hại chỉ có thể là chính trị và quyền lực độc tôn. Điều này, trước hết, nhằm vào N. X. Khrusov.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Hello Việt Nam